7 lời bình của thầy Chu Văn Sơn về Chí Phèo – Nam Cao

7 lời bình về Chí Phèo - Nam Cao

1. Chí Phèo say hay tỉnh?

Có người đã cố chứng minh rằng Chí Phèo tỉnh, Chí Phèo không say! Là nói cực đoan thôi! Bởi Chí Phèo hoàn toàn tỉnh thì vô lí, Chí Phèo hoàn toàn say thì vô nghĩa. Sự độc đáo của hình tượng Chí Phèo chính là trạng thái say – tỉnh bất phân. Đó không hẳn là các mặt tách bạch của mâu thuẫn: bên ngoài – bên trong, bề mặt – bề sâu. Mà cái say – tỉnh nằm ngay ở ranh giới giữa các “bề” đó. Thế nên, lúc điên rồ nhất cũng là lúc tỉnh nhất.

Còn gì điên rồ hơn cách chửi của Chí Phèo ? Nhưng hãy xem các đối tượng bị chửi cứ dần thu hẹp lại: từ xa xôi không đâu nhất, đến đụng chạm sát sạt nhất là Trời, rồi Đời, rồi làng Vũ Đại, cuối cùng là những “đứa chết mẹ nào không chửi nhau với hắn”, sẽ thấy cái logic của một tâm lí tỉnh táo. Tỉnh táo ngay trong đau khổ cùng cực. Rồi xem tiếp cái cách Nam Cao “bào chữa” cho Chí Phèo : “Giá hắn biết hát thì có lẽ hắn không cần chửi. Khổ cho hắn và khổ cho người, hắn lại không biết hát. Thì hắn chửi…”. Đau khổ vì bị tẩy chay, bị loại khỏi thế giới người, hắn bức xúc và cần giải toả. Nếu hát được, đau khổ sẽ vợi bớt. Nhưng trời đâu phú cho Chí Phèo năng khiếu thanh nhạc! Vậy chửi là một kiểu hát của Chí Phèo chứ sao? Bài hát lộn ngược của một linh hồn méo mó và đau khổ. Vả chăng, cũng cần phân biệt cái tỉnh của một người nghiêm chỉnh, của một lương tri, khác với trạng thái tỉnh như là tan cơn say của một tên côn đồ, lưu manh.

Cuộc đời Chí Phèo có thể chia thành hai chặng lớn: trước và sau khi gặp Thị Nở. Trước khi gặp Thị Nở cũng có hai chặng nhỏ mà mốc phân định là nhà tù. Nhà tù thực dân đã biến một người lương thiện thành một tên lưu manh. Sau khi ra tù về làng, các thế lực như Bá Kiến đã làm nốt công đoạn cuối cùng của việc tha hoá Chí Phèo: biến một tên lưu manh thành một con quỉ dữ. Từ đó, Nam Cao mô tả đời hắn như một cơn say dài, mênh mông bất tận, “và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn ở trên đời”. Thị Nở thực sự là một bước ngoặt lớn trong đời hắn, mà trước nhất là, trong tâm lí Chí Phèo. Tuy chỉ có năm ngày ngắn ngủi, nhưng đó thực sự là một quãng đời khác: Chí được sống rồi chết như một con người.

Cũng không phải gặp thị Nở là có ngay sự thức tỉnh sâu xa. Nam Cao tỏ ra rất am hiểu cái diễn biến biện chứng của tâm lí. Ông đã miêu tả nó theo một yêu cầu hiện thực nghiêm ngặt. Quả thực, cuộc chung chạ đêm trước với Thị Nở đêm trước mới đánh thức dậy cái phần bản năng của một gã đàn ông. Và một cuộc chung đụng có lẽ cũng chỉ là được có thế. Phải đến sáng hôm sau được hưởng sự chăm sóc mộc mạc và chân thành của Thị Nở thì trong Chí Phèo mới có sự thức tỉnh cần thiết: bản chất lương thiện của một người nông dân bị vùi lấp đã trỗi dậy, lương tri đã trở về.
Nhưng lương tri trở về lại nhanh chóng đẩy bi kịch tha hóa của Chí Phèo đến hồi chót của nó.

2. Thị Nở là ai?

Câu hỏi có vẻ thừa ! Nhưng muốn trả lời câu hỏi có vẻ thừa đó, lại phải đặt Thị Nở vào trong tương quan với tất cả những nhân vật quan trọng nhất của làng Vũ Đại. Nghĩa là phải xem xét cấu trúc hình tượng của tác phẩm.

Thực ra vấn đề Chí Phèo là vấn đề nhân tính. Cực điểm của sự tha hoá ở Chí Phèo là đã huỷ hoại cả nhân hình lẫn nhân tính, nghĩa là bán đi cả bộ mặt người lẫn linh hồn người để trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Hình tượng Chí Phèo là biểu hiện cho tính người đã bị huỷ hoại, vùi lấp. Thủ phạm là Bá Kiến. Tham gia cùng quá trình đẩy Chí Phèo đến cùng quẫn, bế tắc tuyệt vọng còn có 1 lực lượng khác, không kém phần tàn bạo: định kiến. Bà cô Thị Nở hiện diện trong tác phẩm như là là cái loa phát ngôn cho định kiến của làng. Còn Thị Nở? Đó là hiện thân của tình người. Chỉ có tình người mới cứu được tính người. Tình người là một sức mạnh. Nhưng tình người cũng thật mong manh. Đối diện với một định kiến hà khắc, tình người rất có thể sẽ tiêu tan. Cái quan hệ Thị Nở – Chí Phèo – bà cô dường như đã nói lên cái tương quan ấy.Không phải ngẫu nhiên Nam Cao mô tả Chí Phèo có quan hệ với hai người đàn bà. Với bà Ba – hẳn là xinh vào hạng nhất làng Vũ Đại – Chí không được hưởng một chút tình yêu nào. Hành vi của bà Ba gọi Chí lên bóp chân, về thực chất, là hành vi bóc lột – Bóc lột cái phần trai trẻ ở Chí Phèo, mà bấy giờ lão Bá đã cạn. Chí Phèo chỉ được xem như một thứ nô lệ thôi. Còn với thị Nở – người đàn bà xấu nhất làng Vũ Đại, Chí Phèo được hưởng tình người. Tình người mạc, đơn sơ chỉ còn sót lại duy nhất ở Thị Nở?

Nhiều người cứ phê phán Nam Cao là tự nhiên chủ nghĩa, là quá trớn khi mô tả thị Nở xấu đến ma chê quỷ hờn. Nhưng xét ở bình diện nghệ thuật, Thị càng xấu, tác phẩm càng hay. Dĩ nhiên hay không phải vì xấu. Thị Nở xấu đến tột bậc mà vẫn không lấy được, thì bi kịch mới càng sâu sắc. Đâu phải vô cớ mà Nam Cao trút vào Thị Nở tất cả những nét mỉa mai nhất của hoá công dành cho một người đàn bà. Thị xấu, nghèo, lại dở hơi, lại con nhà có mả hủi! Tất cả những thứ ấy đã biến Thị Nở thành một thứ phế thải, vô giá trị. Nhưng ở cái con người vô giá trị ấy lại có một thứ tài sản vô giá: tình người. Đây là một dụng ý của Nam Cao. 

3. Bát cháo hành – sự kì diệu của tình người

Xét cho cùng, biểu hiện lớn nhất của tình người của Thị Nở là bát cháo hành. Và đây là một chi tiết thiên tài của Nam Cao. Việc Thị Nở chăm sóc cho khi bị cảm gió ngoài vườn, thực ra, chỉ là cử chỉ của một lòng tốt bình thường của một con người dành cho một con người. Nhưng trong cái thế giới ngày càng vô tình, tha hóa của làng Vũ Đại, đây là lòng tốt hiếm hoi duy nhất mà Chí nhận được kể từ ngày về làng. Vì thế nó quý giá, nó mới làm cảm động Chí Phèo sâu xa đến thế. Gửi niềm tin vào lòng tốt bình thường, Nam cao đã tỏ rõ tầm cỡ của một nhà văn nhân đạo lớn. Bởi cái mà nhân loại thiếu không phải một lòng tốt xa vời và hư ảo của một ông thánh, cũng không phải lòng tốt suông của những nhà lập thuyết viển vông: “Cái mà nhân loại thiếu, đó là một lòng tốt bình thường”, lời nói đó đã luôn vang lên như một điệp khúc khắc khoải trong tác phẩm của Rơmác. Chỉ cần mỗi con người mang cho nhau một lòng tốt bình thường là đủ để cả hành tinh này tốt đẹp rồi.

Cháo hành là thứ cháo xoàng xĩnh. Lại được nấu bởi bàn tay của Thị Nở thì chắc là … ấy thế mà đến này, khi sang đến cái dốc bên kia của cuộc đời, Chí mới lần đầu tiên được hưởng. Chí Phèo ý thức được sự hiếm hoi muộn màng đó. Và hắn nhận ra đó là hương vị của tình người. Kề bát cháo hành lên miệng, hắn đã khóc. Nam Cao đã tả bằng những lời văn bè ngoài lạnh lùng mà bên trong đầy thương cảm xót xa: “ Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình như ươn ướt”. May mà Chí Phèo vẫn còn những giọt nước mắt ấy. Nếu không còn khả năng khóc, Chí Phèo không còn khả năng lương thiện, nghĩa là lương tri đã chết hẳn trong con người Chí. Nam Cao tin vào nước mắt của con người. Với Nam Cao, nước mắt là biểu hiện của tính người. Sự thức tỉnh của các nhân vật Nam Cao đều cũng với giọt nước mắt là bằng nước mắt. Sống trong xã hội Vũ Đại héo khô tình người, giọt nước mắt trong Chí Phèo tưởng đã khô cạn, tiêu tan. Hóa ra chưa hẳn. Nó chỉ bị vùi lấp trong sâu thẳm lòng Chí, nó vẫn còn cháy len lỏi, âm thầm và trong suốt. Vậy là tình người đã được thức tỉnh, đã hồi sinh tính người trong Chí. Vừa chạm đến tình người thì cái lốt quỷ dữ của Chí dường như đã được trút bỏ, con người lương thiện đã hiện nguyên bản tướng. Đó chẳng phải là sự kì diệu của bát cháo hành, kì diệu của tình người hay sao?

4. Bút lực sung mãn của Nam Cao

Chí Phèo là một kiệt tác, được viết bằng một bút lực sung mãn và rất đều tay. Nhưng nếu cần chọn một đoạn nào đặc sắc nhất trong đó để kết tụ được đậm nhất những tinh hoa của ngòi bút Nam Cao, thì hẳn phải là đoạn diễn tả những biến đổi bên trong Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở đến khi xách dao đến Bá Kiến.

Từ khi về làng, Chí Phèo được Nam Cao mô tả ở trạng thái tỉnh ra có hai lần. Và hễ tỉnh ra là buồn. Cho nên, khi Chí buồn, đó là lúc Chí Phèo nhân tính nhất. Bởi tỉnh ra, Chí mới nhìn thẳng vào thân phận mình mà nhận ra tất cả sự thê thảm của nó. Ở vào tuổi Chí (sang cái dốc bên kia của cuộc đời), một người ở nông thôn đã phải làm xong những đầu việc lớn nhất của một kiếp người. Có nghề nghiệp, có nhà cửa, có gia thất, nếu may mắn thì đã có cháu rồi… Đằng này, Chí là con số không. Thậm chí còn không được là số không. Chí là con số âm – bởi Chí còn không được coi là người! Hỏi làm sao mà không buồn được? Lần thứ nhất, Chí tỉnh ra vào buổi sáng nghe tiếng chim hót, nghe tiếng gõ mái chèo đuổi cá, tiếng mấy bà đi chơ trao đổi việc mua bán vải, … Tỉnh ra để mà hi vọng. Hi vọng trở lại lương thiện, hi vọng Thị Nở sẽ như chiếc cầu nối, sẽ như người bảo lãnh cho mình. Lần thứ hai, tỉnh ra để mà tuyệt vọng. Cái tình người ở thị Nở đã bị cái định kiến ở bà cô giết chết một cách phũ phàng. Thị nở là người duy nhất tách ra khỏi cái làng Vũ Đại. Tình người mong manh đã bị định kiến thôn tính. Nỗ lực cuối cùng của Chí Phèo nhằm níu giữ Thị Nở lại phía mình đã bị gặt phắt một cách vô tình mà phúc phàng (Hắn đuổi theo Thị, nắm lấy. Thị gạt ra, lại giúp thêm cho một cái). Thị ngoay ngoáy cái mông đít đi về phía làng Vũ Đại. Đau đớn cùng cực, Chí mang rượu ra uống. Lần này khác tất cả mọi lần, càng uống lại càng tỉnh ra. Hắn ôm mặt khóc rưng rức! Từ hi vọng đến tuyệt vọng, khởi đầu bằng nước mắt và kết thúc cũng là nước mắt.

Những trạng thái tâm lí được Nam Cao tai hiện sống động, đầy thuyết phục với tất cả diễn biến tinh vi nhất. Bằng cả độc thoại nội tâm bên trong, bằng cả lời nói mỉa mai trực tiếp của người kể chuyện, bằng cả lối dùng ngoại hiện , … Tuy nhiên, thiên tài nhất vẫn là ở việc dùng chi tiết. Ở đây tôi muốn nói đến chi tiết hơi cháo hành. 

5. Vết cứa hằn sâu trong tâm linh

Hơi cháo hành là biến thể của bát cháo hành. “Và hắn uống. Nhưng tức quá, càng uống lại càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ôi, buồn! Hơi rượu không sặc sụa. Hắn cứ thấy thoang thoảng hơi cháo hành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức”.

Vào cái lúc tuyệt vọng nhất hơi cháo hành lại cứ hiện ra. Hiện ra để đẩy hắn sâu hơn vào nỗi tuyệt vọng. Sang cái dốc bên kia của cuộc đời rồi mới được ăn cháo hành. Muộn mằn, nhưng còn là cháo có hành, tuy được nấu bởi bàn tay Thị Nở…, nhưng còn hơn không. Đã tưởng đời mình từ nay đã có hơi cháo hành của riêng mình rồi. Nào ngờ Chí không có quyền được hưởng. Cuộc đời lại cướp nốt! Mất Thị Nở, Chí mất luôn hơi cháo hành vĩnh viễn. Hơi cháo hành là sự níu giữ cuối cùng của Chí đối với cuộc đời này. Mất hơi cháo hành là cái mất cuối cùng của Chí. Nhưng tại sao nó lại thoang thoảng hiện lên vào lúc này? Để trêu ngươi, để chọc tức Chí Phèo! Nó cứ chờn vờn đâu đó. Ngỡ chỉ cần kiễng chân, nhoài người là có thể chộp lại được, lại cầm giữ được trong lòng bàn tay. Nhưng không. Nó đã tuột ra, vĩnh viễn tuột ra ngoài tầm tay rồi! Nó thoang tháng hiện lên để làm đau Chí Phèo, để đẩy bi kịch Chí Phèo đến cùng cực. Hơi cháo hành là sự bám víu cuối cùng. Là hết chẳng còn gì để mất. Lòng Chí đã tan hoang tận cùng tuyệt vọng Chí đã chuyển sang tột cùng căm uất. và Chí đã xách dao đi…

Chẳng có gì mong mang, vô nghĩa như hơi cháo hành. Vậy mà qua tấm lòng nhân hậu sâu thẳm của Nam Cao, hơi cháo hành nhỏ nhoi mờ nhạt ấy đã hằn lên như một vết cứa, vết xước trong tâm linh của con người. Đó chỉ có thể là bút lực của một thiên tài.

6. Nhân vật Tự Lãng

Trong cái xã hội Vũ Đại đó, vẫn tồn tại một nhân vật mà người đọc chỉ coi như “dân ngụ cư” sống nhờ, sống gá vào bên lề dòng chảy của mạch truyện. ấy là Tự Lãng – một thầy cúng kiêm hoạn lợn ! Có phải lão chỉ như một kẻ dạt vào câu chuyện, chẳng có địa vị nào đối với tư tưởng tác phẩm ? Lão chỉ sống một “đời thừa” ? Nhất định không. Bỏ rơi Tự Lãng vào quên lãng thật oan ức cho lão. Chúng ta hay nói đến Nam Thọ, Binh Chức như những tiền thân “trực hệ” của Chí Phèo, mà quên rằng : Tự Lãng cũng là một tiền thân khác của Chí. Chẳng phải thế sao ? Trong Chí Phèo, thấy có cả Binh Chức, Năm Thọ lẫn Tự Lãng – cả tên đầu bò lẫn kẻ đau khổ. Thực ra trong cái làng Vũ Đại của nghệ thuật Nam Cao, Tự Lãng gần với lão Hạc hơn, xét về loại hình. Cả hai đều bị dồn đẩy vào một tuổi già cô độc, trơ trọi, khốn cùng. Nhưng trước sau, lão Hạc vẫn là lão Hạc. Còn Tự Lãng đã đầu hàng số phận và dường như đã đặt những bước đầu tiên vào con đường tha hoá. Cột mốc đầu tiên của con đường ấy là rượu. Lúc này, rượu hãy còn là người bạn câm lặng nhưng tin cậy duy nhất. Chỉ có rượu biết cảm thông, chia sẻ đau khổ cùng lão. Về điểm này, có thể xem Tự Lãng là hình ảnh của Chí Phèo ở cái bước đau khổ đang xui khiến Chí tìm đến rượu – nghĩa là cái bước tiền tha hoá, đúng hơn, chớm tha hoá. Thế nên, rượu đã giúp Chí Phèo nhận ra ở Tự Lãng một tri kỉ. Đối với Chí Phèo, tất cả những kẻ uống rượu đều là bạn, “đều hay hay”.

Phải nói rằng, trang mô tả cuộc đối ẩm của đôi tri kỉ cuồng này xứng đáng thuộc vào những trang độc đáo nhất mà văn chương có thể viết về rượu. Đó là khúc hoan ca ngộ nghĩnh và kì dị dành cho những tửu đồ. Rượu đã giúp Chí quên đi một việc ác để làm điều thiện cho lão Tự. Rượu cũng biến một kẻ hoạn lợn thành một triết nhân vừa ngọng nghịu vừa sắc sảo của chủ nghĩa hư vô. Bên dưới bầu trời đầy trăng của của làng Vũ Đại có hai kẻ đang ngụp lặn trong rượu, trong trăng, cũng là hai kẻ vật vã trong đời. Hai nạn nhân khác nhau : một kẻ là nạn nhân của số phận, một kẻ là nạn nhân của xã hội. Từ tương phản này, có thể thấy những ý nghĩa riêng của hình tượng Tự Lãng. Trên cái cây tư tưởng của tác phẩm, Tự Lãng và Chí Phèo là hai nhánh vừa song song vừa kế tiếp. ở Tự Lãng, khát vọng sống đã tắt. “Ai chết cũng thành cái mả”, “cái mả tất”, ấy là triết lí về sự vô nghĩa của kiếp người. Không thiết sống, lão đã tự đầu độc mình bằng rượu và triết lí hư vô để chết mòn. Nghĩa là đã tuyệt vọng một cách hoàn toàn tỉnh táo. Còn ở Chí Phèo, khát vọng sống chưa tắt hẳn. Sau khi đã tỉnh, thì phần người trong Chí quyết không thể chết chìm trong rượu. Tự Lãng hỏi “Người ta đứng lên bằng cái gì ?”, đâu phải lời ngớ ngẩn của rượu. Đó thực sự là một triết – lí – líu lưỡi của một kẻ tỉnh đời. Bị ném vào giữa đau khổ, lão đang muốn tìm cách đứng lên đấy chứ, nhưng lão đã bị rượu đánh gục. Còn Chí Phèo, sau khi đã tỉnh ngộ, thì rượu cũng bất lực, không làm hắn tê liệt u tối được nữa. Chí Phèo sẽ ném vào cái xã hội ấy triết lí ghê gớm của mình : “Ai cho tao lương thiện ? Làm sao có thể mất được những vết mảnh chai trên mặt này ?”. Vậy đấy, cả Tự Lãng và Chí Phèo đều là vấn đề quyền làm người. Họ đều thèm được sống, sống có ý nghĩa. Nhưng các thế lực cả bên dưới và bên trên cái gầm trời Vũ Đại đó đã chà đạp và cướp đi quyền sống của họ. Họ phải chết, mỗi người một cách. Thế nên, Tự Lãng đâu phải nhân vật hài kịch. Lão là bi kịch. Lão là tiếng nói phụ hoạ với Chí Phèo, giúp Nam Cao phê phán gay gắt hoàn cảnh Vũ Đại.

7. Ngả mũ trước ngôn từ của Nam Cao

Một trong những điểm “đáng sợ” của thiên tài Nam Cao khiến ai cũng phải ngả mũ là ngôn từ. Ông không chỉ am hiểu ngôn ngữ đời sống một cách chung chung mà còn nắm vững dạng thức sống của từng loại ngôn ngữ.

Chọn Chí Phèo làm nhân vật trung tâm, Nam Cao tự đặt mình trước một thách thức lớn. Nó đòi hỏi ông phải am tường cả một phức hợp tâm lí – tính cách: một nông dân, một lưu manh, một kẻ say, một người tỉnh, một đầu óc có vẻ tê liệt, một ứng xử đầy lắt léo toan tính… Khi nhân vật cất lời, nó phải hiện ra đủ vành đủ vẻ như thế, từ khẩu khí đến từ vựng, từ cú pháp đến tu từ, phong cách, từ hiển ngôn đến hàm ngôn… Đáp ứng được đủ thứ thế, ngôn ngữ thực sự trở thành một kiến trúc đa tầng, phức tạp song vẫn tự nhiên. Lẩy ra một đoạn bất kì trong các đối thoại Chí Phèo – Bá Kiến, đều thấy ngay ma lực của nó.

“Bẩm cụ, từ ngày cụ bắt con đi ở tù, con lại sinh ra thích đi ở tù; bẩm có thế, con có dám nói gian thì trời tru đất diệt, bẩm, quả đi ở tù sướng quá. đi ở tù còn có cơm để mà ăn, bây giờ về làng về nước, một thước cắm dùi không có, chả làm gì nên ăn. Bẩm cụ, con lại đến kêu cụ, cụ lại cho con đi ở tù…”. Phải, đây cũng là đoạn thoại thuộc về bút lực một thiên tài.

Lần này, Chí đến, thực chất, để đòi đất. Muốn sống được, bất cứ ai cũng cần hai điều kiện tối thiểu : nhà ở và việc làm. Những thứ này phải lấy từ lão Bá. Nhưng đến xin hẳn hoi, chắc hỏng. Đó là cách của kẻ yếu. Đừng hòng lão nhả ra. Phải chơi rắn theo lối của kẻ mạnh thì hắn mới kiềng mặt, mới được việc. Vậy, phải mượn chén. Đoạn thoại đúng là rất Chí Phèo. Khẩu khí đây chính là miệng lưỡi chung của đám đầu gấu Năm Thọ, Binh Chức đã dùng ăn nói với Bá Kiến: vừa say vừa tỉnh, vừa nghiêm chỉnh vừa chất chưởng, vừa trực diện vừa bóng gió, vừa xin xỏ vừa dọa dẫm, vừa ám chỉ vừa cà khịa… Nghe cứ nửa nạc nửa mỡ, cứ nhơn nhơn. Nó tạo ra ít nhất hai tầng nghĩa : bên trên, cuộc đối thoại phải đạo giữa “con” (Chí Phèo) và “cụ” (Bá Kiến) ; bên dưới, cuộc đối đầu gay cấn giữa hai kẻ thù, mà rõ ra là, nạn nhân với thủ phạm. Muốn thấu được tính đa tầng của kiến trúc ngôn ngữ phức tạp đó, người đọc phải bóc tách, cắt lớp. Câu vào đầu: “Bẩm cụ, từ ngày cụ bắt con đi ở tù, con lại sinh ra thích đi ở tù”, đâu chỉ là lời đà đặn phân bua về cái lí do xin xỏ. Nó còn là lời vạch mặt chỉ trán và tuyên chiến : tao biết thằng nào đã đẩy tao vào tù rồi, chính mày! Và tao cũng nói cho mày biết, cái thủ đoạn đê hèn là đẩy những thằng như tao vào tù, giờ vô nghĩa, tao cóc sợ. Mày hết võ rồi ! ý hàm ngôn thế, thì quá tỉnh còn gì ! Thế nhưng lời vẫn rất say. Bề ngoài, tầng hiển ngôn, nghe chả là cái luận điệu ngược đời của một thằng say hay sao ! Lập luận ngang ngược : “đi ở tù sướng quá”, mà lại đầy logic: ở tù, không phải lo nhà ; cơm tù là thứ cơm mạt hạng, nhưng vẫn là có cơm. Còn bây giờ về làng “một thước cắm dùi không có”(không có nhà đất), “chẳng làm gì nên ăn”(không có việc làm). Sống sao được ! Nói thế thì còn say ở chỗ nào ! Nhưng Chí định “đầu đơn”vào tù sao ? Dại gì ! Hắn sẽ gây án, “sẽ đâm chết dăm ba thằng rồi cụ bắt con giải huyện”. Thì thằng đầu tiên, mà có thể thằng duy nhất, là cụ Bá. ý là, nếu mày không nhả nhà đất ra, tao sẽ giết, rồi vào tù cũng cam lòng.

Đấy, tôi đã làm cái việc “giải mã” thông điệp của Chí Phèo. Nhưng làm sau Bá Kiến đến mấy chục năm. Tôi thì phải bóc tách, cắt lớp dần, mới thấy được cái kiến trúc ngôn ngữ ma lực của Nam Cao (nó có một cái gì rất gần cái lối “tảng băng trôi” được biết đến sau này của Hêminguê – nhà văn thiên tài Mỹ). Còn lão Bá thì “giải cấu trúc” cực nhanh, đọc vị ra ngay lập tức cái “mạch ngầm văn bản” của Chí Phèo. Rồi cũng tức khắc tương kế tựu kế. Mà có cần phải viện đến tí ti lý thuyết ngôn ngữ học nào đâu! Tài thật, tài thật, tài đến thế là cùng…


Xem thêm:

Giá trị nhân đạo trong Chí Phèo – Nam Cao

Tham khảo các bài văn mẫu nâng cao tại chuyên mục: https://thichvanhoc.com.vn/van-mau/nang-cao/

Đón xem các bài viết mới nhất trên fanpage FB Thích Văn Học