NHÂN VẬT BÀ CỤ TỨ

phan tich nhan vat ba cu tu

Nói đến văn học là nói đến một phạm trù không giới hạn của nghệ thuật, có khả năng gợi mở mọi chiều kích của các giác quan và trường liên tưởng, thì với tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân cũng như thế. Ta không chỉ biết đến một anh Tràng thô nhám, cục mịch đến ngượng nghịu, ngẩn ngơ như một đứa trẻ lớn hiền lành, một chị vợ “chao chát, chỏng lỏn” mà “hiền hậu, đúng mực”, ta còn biết đến một nhân vật giữ cho câu chuyện “Vợ nhặt” có chiều sâu, một nhân vật mang trên mình cái thiêng liêng của tình mẫu tử, của tình người đẹp đẽ, mang đến những hi vọng, những hạnh phúc tưởng chừng giản đơn nhưng lại thắp lên cả một niềm tin vào sự sống, vào tình người trong cái đói. Đó là bà cụ Tứ. Càng đọc, càng ngẫm nghĩ, ta càng cảm nhận sâu sắc tấm lòng của người mẹ nông dân trong cơn đói thảm họa này. Hãy cùng theo chân người viết, bước vào hành trình và nội tâm của nhân vật này trong tác phẩm Vợ Nhặt của cố nhà văn Kim Lân.

Nhắc đến nhà văn của làng quê Việt Nam, người ta nghĩ ngay đến Kim Lân. Ngòi bút mộc mạc của Kim Lân tìm về với kiếp người thôn quê nghèo khổ. Tuy trong cái bóng tối của cơ cực vây quanh những mảnh đời những người nông dân, nhưng ánh sáng từ ngọn lửa của tình người, lòng nhân nghĩa vẫn là màu sắc chủ đạo xuyên suốt trong tất cả các tác phẩm. Vợ Nhặt cũng không nằm ngoài dòng chảy đó. Tác phẩm có tiền thân từ tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được Kim Lân viết ngay sau cách mạng tháng Tám nhưng bản thảo dang dở, thất lạc. Hòa bình lập lại (1954), KL viết lại dưới dạng một truyện ngắn và đặt tên là “Vợ nhặt”. Tác phẩm được in trong tập “Con chó xấu xí” (1962). Bối cảnh của câu chuyện “nhặt vợ” là nạn đói khủng khiếp năm 1945. Bóng đen chết chóc của cái đói đã “đã tràn đến”, phủ xuống khắp các xóm làng, và nạn đói năm ấy trở thành bóng ma ám ảnh của dân tộc ta tại thời điểm đó. Trong cái cảnh “tối sầm lại” vì đói khát ấy, nhân vật của Kim Lân hiện lên mang thông điệp đầy ý nghĩa: “trong sự túng đói quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh khốn khổ nào người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái ảm đạm để mà vui để mà hi vọng”. Bà cụ Tứ, dù là nhân vật phụ, xuất hiện sau cùng trong tác phẩm nhưng lại góp tiếng nói đầy đủ nhất, sâu sắc nhất, để lại ấn tượng khó phai trong lòng người đọc.

Bà cụ Tứ là một nhân vật phụ xuất hiện ở phần giữa thân truyện “Vợ nhặt”. Nhưng nếu không có nhân vật này, chắc chắn tác phẩm sẽ không còn hấp dẫn, hoặc sẽ hấp dẫn theo một cách khác… Bà cụ Tứ đã giữ cho câu chuyện “Vợ nhặt” có chiều sâu, mang lại cho tác phẩm sự mặn mà, đằm thắm. Viết “Vợ nhặt” với tình huống anh cu Tràng nhặt được vợ, Kim Lân muốn thể hiện số phận bi thảm của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám và lòng khao khát tới hạnh phúc của họ. Xây dựng nhân vật bà lão, dường như nhà văn muốn hướng người đọc nhìn việc lấy vợ của Tràng từ một góc độ khác, trong một tâm trạng khác. Nhưng đọc tác phẩm, càng ngẫm nghĩ ta càng cảm nhận sâu sắc hơn tấm lòng người mẹ nông dân nghèo trước cách mạng. Điều này có lẽ nằm ngoài ý đồ sáng tạo ban đầu của tác giả. Sự kì diệu của nghệ thuật chính là ở đó. Lòng kính trọng người mẹ, kính trọng người già và nỗi đau khổ suốt đời đè nặng lên con người đã tạo nên tầm bao quát và sức sống của nhân vật bà cụ Tứ.

Bà cụ Tứ trước hết là người mẹ nghèo khổ đã già yếu với cái lưng “lòng khòng”, khẽ mắt “lèm nhèm”,”khuôn mặt bủng beo, u ám”. Những hành động cử chỉ của bà “nhấp nháy hai con mắt”,”chậm chạp hỏi”, “lập cập bước đi”, “lật đật:, “lễ mễ” đều toát lên tất cả các nét của bà là một người đã già, không còn khỏe mạnh. Hơn nữa người phụ nữ ấy còn bị đặt trong hoàn cảnh nghèo nàn, đói khổ mà bà nói “cuộc đời cực khổ dài đằng đẵng”.

Chân thật là “điểm đi” và cũng là “điểm đến” của nghệ thuật chân chính. Sức sống của nhân vật cũng do yếu tố này quyết định. Bởi khi sống với nhân vật, ta như được sống với thế giới tâm hồn “thật hơn cả con người thật”. Đến với nhân vật bà cụ Tứ, nhiều lúc ta có cảm giác như bà “hấp háy cặp mắt” bước từ căn nhà rúm ró, tồi tàn của mình mà bước vào trang truyện chứ không hề do dụng công xây dựng của tác giả, một nhân vật không hề có nét nào của việc “tô son đánh phấn”. Vâng, làm sao có thể nghi ngờ được điều đó khi ta chứng kiến những diễn biến tâm lí đầy tinh tế, khi ta lắng nghe những lời nói tưởng dớ dẩn, lẩm cẩm mà xiết bao ân tình của người mẹ nông dân nghèo…

Nếu diễn biến tâm trạng của Tràng và vợ Tràng được nhà văn miêu tả theo một đường thẳng thoáng lo âu buồn tủi rồi đi ngay đến niềm vui bất tận, thì bà cụ Tứ được Kim Lân miêu tả tâm trạng gấp khúc, đan xen nhiều tâm trạng từ quá khứ đến hiện tại và hướng tới tương lai. Bà cụ Tứ được đặt trong hoàn cảnh là con trai mình đột ngột có vợ. Tình huống này khiến bà vừa vui vừa buồn, vừa lo lắng lại vừa hy vọng.

Và tinh tế, người đọc sẽ dễ dàng nhận thấy hai mặt trong tâm trạng của bà mẹ nghèo khổ ấy: Bề nổi mẹ luôn nói những chuyện vui, mong ước về tương lai tươi sáng để gieo lên niềm tin cho các con, nhưng bề chìm, chiều sâu của tâm trạng là nỗi lo lắng, tủi hờn và những giọt nước mắt chảy ngược vào trong mẹ đã giữ lại để riêng cho mình. Lòng bao dung và đức hi sinh của bà mẹ ấy cũng giống như bao người mẹ Việt Nam. Nhân vật duy nhất trong thiên truyện này có ý che lấp hiện thực phũ phàng chính là bà cụ Tứ. Nó đau đớn vụng về như chính lúc bà quay đi che dòng nước mắt của mình cho các con khỏi nhìn thấy.

Chân thật trong hình ảnh và chân thật trong từng chi tiết, Kim Lân dường như không kể mà dắt ta đến với bà cụ Tứ. Bắt đầu là cái dáng “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Có biết bao nhiêu là thân thương, trìu mến. Phải chăng sau một ngày đi làm thuê kiếm sống chưa đủ mưu sinh, còn bao lo toan cho gánh nặng cơm áo để đầu óc người mẹ ấy không một phút thảnh thơi. Ta gặp lại dáng hình gầy còng vì sương gió cuộc đời của người mẹ nghèo thân thuộc. Từ “lọng khọng” đầy sáng tạo và giàu sức tạo hình, một dáng vẻ gầy guộc, còm cõi, lưng còng, bóng ngả. Cái bóng còng của bà cụ Tứ càng ngả hơn khi xuất hiện trong buổi chiều hôm đầy chạng vạng. Cái xế chiều của một đời người gặp cái xế chiều của một ngày tàn như gợi lên sự chua xót hơn cho những thân phận nghèo khổ trọn vẹn cả kiếp người. Cái lẩm cẩm, chậm chạp theo nỗi “phấp phỏng” trước sự đón tiếp khác thường của ông “con giai”, bà bước vào trong nhà. Khi thấy một người đàn bà lạ đứng ngay ở đầu giường con mình, bà hết sức ngạc nhiên. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà. “Nguời đàn bà nào lại đứng ở đầu giường thằng con mình thế kia? Không phải cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Sao lại chào mình bằng u?”. Phải, bà làm sao ngờ được giữa năm đói, nhà lại nghèo mà con bà lại dẫn không về nhà một người vợ! Nỗi băn khoăn bởi trong hoàn cảnh ấy, với anh con trai thô kệch và gia cảnh của mình là hoàn toàn hợp lí. Đúng ra, khi con cái trong nhà đến tuổi dựng vợ gả chồng, người mẹ nào cũng đủ tinh tế để nhận ra và hiểu chuyện khi thấy con dắt một cô bạn gái về. Nhưng chính cái đói, cái nghèo đã làm người mẹ này mất đi khả năng nhạy cảm thiên phú ấy. Bởi hơn ai hết bà hiểu gia cảnh của mình. Con mình nghèo làm sao lấy nổi vợ. Thật chua xót cho những kiếp lầm than, đến cả hạnh phúc nhỏ nhoi, bình thường họ cũng đánh rơi mất.

Băn khoăn mãi, khi đã hiểu, “bà lão cúi đầu nín lặng”, cái cúi đầu của con người bởi nỗi khổ đeo bám suốt cuộc đời, giờ đến khi gần đất xa trời mà cũng không lo được cho con một mái ấm. Sự xót thương, tủi hờn cho mình, cho con trai và cho cả con dâu. Bà vừa “ai oán vừa xót thương cho số kiếp con mình”. Thương con để rồi tủi phận mình. “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì…”. Đọc những dòng này, ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong cái thân hình còm cõi đang rung lên đau đớn, xót xa. “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”, lý trí đã không ngăn nổi tình cảm. Kim Lân như một nhà quay phim tài ba đầy cảm xúc lia ống kính máy quay của mình chớp lấy thần cảnh, thước phim từ cận cảnh làm hiện lên đôi mắt hằn dấu chân chim một đời vất vả của người mẹ già, và trên cái khoé mắt nứt nẻ theo thời gian ấy rạn ra hai dòng nước mắt khô héo. Nước mắt của người già, mà như Nguyễn Khuyến xưa đã từng viết:

“Tuổi già hạt lệ như sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”

Thời gian là kẻ khách quan và quá đỗi vô tình, nó đã mang đi tuổi thanh xuân của mẹ cùng bao lo toan, nhọc nhằn, vất vả đã vắt kiệt sức mẹ. Mẹ khó có thể khóc được nữa, bởi “nước mắt người già chảy ngược vào tim”. Khi mẹ khóc tức là mẹ đang đau lắm. Việc trọng đại trong đời con, bà cũng ý thức lẽ ra “làm được dăm ba mâm mới phải”, nhưng “nhà mình nghèo quá”, nên điều đó chỉ nằm trong suy nghĩ, không thực hiện được và bà đau, bà tủi.

Quên làm sao được cử chỉ ân cần mà xiết bao thương mến của mẹ với con dâu, ta tưởng như có cái vẫy tay đầy thân thương sau câu nói này: “con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Quan hệ mẹ chồng nàng dâu trong mỗi gia đình không mấy khi được hòa hợp, huống chi đây lại là cô con dâu không được hỏi cưới đàng hoàng. Cứ ngỡ tưởng bà mẹ ấy sẽ coi thường, hắt hủi người dâu nhặt. Nhưng chúng ta đã thật sự ngỡ ngàng trước những lời nói, cử chỉ ôn tồn của bà mẹ nghèo này. Còn đâu là ranh giới giữa mẹ chồng – nàng dâu? Hay tình yêu thương đã xoá nhoà đi tất cả. Tình yêu ấy dâng lên nghẹn ngào khi bà cụ Tứ nói trong nước mắt: “kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo… lấy nhau lúc này u thương quá….”. “Lúc này” ở đây chính là thời điểm năm 1945 – cái mốc in dấu một nạn đói khủng khiếp đã đi vào lịch sử: “hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói” (Tuyên ngôn độc lập), câu nói ấy vẫn còn vang lên như một chứng tích tội ác của giặc, không khí quê hương “vẩn lên một mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, “dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma”. Ấy vậy mà, “như bèo gặp nước”, vợ chồng Tràng đã đến với nhau đánh cược cùng cuộc đời, cùng cái đói, cái chết. Thử hỏi sao lòng người mẹ không đau. Bà chỉ biết khuyên vợ chồng Tràng thương yêu nhau, ăn ở hoà thuận để cùng vượt qua cơn bĩ cực này. Đó là nỗi cảm thông của người mẹ từng trải, hiểu đời có tấm lòng yêu con sâu thẳm…

Bà cụ thương con, tủi phận rồi lại thương dâu. “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…” bằng sự cảm thông sâu sắc. Bà hiểu ra căn nguyên, ngọn nguồn của mọi vấn đề chính là cái đói. Nó hủy hoại con người bằng cách cướp đi mạng sống nhưng đồng thời trước sự hủy diệt ghê gớm của nó đã tạo ra một sợi dây vô hình gắn kết mọi người lại với nhau để sống và sống thật ý nghĩa: Tràng có hạnh phúc gia đình, thị có chỗ bấu víu để hi vọng có sự sống dù là mong manh, bà cụ Tứ có con dâu mới. Tất cả đang mở ra một tương lai phía trước dù tương lai ấy đang mờ mịt, bế tắc bởi sự đe dọa bởi cái chết luôn rình rập.

Lo lắng cho cuộc sống và tương lai của các con.

Vừa mừng tủi, vừa lo lắng, bà lo nỗi lo rất chính đáng của con người đã trải một đời cực nhọc, đớn đau: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Nếu qua được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó. Và bà cũng nghĩ đến trường hợp xấu nhất nếu xảy ra là ông trời bắt chết thì cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo hết cho được. Không hiểu trong đầu của bà mẹ nghèo kia đã trải qua bao suy nghĩ trong những mảng sáng tối để rồi dừng lại ở một suy nghĩ bị đeo đẳng bởi hiện thực khắc nghiệt. Cái đói, cái chết không phải lởn vởn mà nó luôn hiện hữu ở mọi ngõ ngách trong suy nghĩ của con người.

Bởi nỗi lo trong lòng, bà cụ động viên con tin tưởng vào tương lai. “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?…”. Nhưng không phải ngẫu nhiên Kim Lân lại để ngay khi nghĩ về viễn cảnh tương lai tươi sáng lại là ánh mắt đăm đăm của bà khi nhìn ra ngoài để bao trùm lấy hai con mắt là cánh đồng mênh mông bóng tối. Là mùi đống rấm khét lẹt của những nhà có người chết thoảng vào. Lại là gánh nặng của hiện thực không thể phủ nhận và chạy trốn. Không lẫn đi đâu được cách nói, cách nghĩ vừa lẩn thẩn, vừa hồn hậu của người mẹ già nông thôn. Tác giả vừa hóa thân vào nhân vật để phân tích diễn biến tâm lí vừa khách quan ghi lại.

Đặt nhân vật trong hoàn cảnh không gian, thời gian nhất định, Kim Lân đã diễn tả sâu sắc tâm trạng nhân vật. Bà cụ Tứ ngửi “mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết thoảng vào khét lẹt” mà “nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út”, đến “cuộc đời cực khổ dằng dặc” của mình để rồi phấp phỏng lo lắng cho tương lai của con: “Liệu chúng nó có hơn bố mẹ chúng nó trước kia không?”. Nghệ thuật “biện chứng tâm hồn” đã thể hiện nhuần nhị trong từng biến thái tinh tế, phong phú của tâm lí người mẹ nghèo. Tác giả phải có sự thấu hiểu, trân trọng đặc biệt, phải có vốn sống phong phú đến mức nào mới có thể diễn tả một cách chân thực, tài tình đến vậy. “Vợ nhặt” không còn là trang văn, đó là những trang đời – những trang đời thấm đẫm những giọt nước mắt tụi cực, xót xa, phấp phỏng nỗi lo cho tương lai và rạng rỡ lạc quan thắp lên trong trái tim người mẹ nghèo. Chân thực mà cũng thật cảm động, hình ảnh bà cụ Tứ không chỉ giúp ta chứng kiến diễn biến tinh tế của tâm lí mà còn rung cảm sâu sắc trước tâm tình tha thiết của người mẹ. Bà nói với con dâu bằng lời của một người từng trải – vừa lo lắng, vừa thương xót: “… Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”. “Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa…”. Nhưng ta hiểu, người con dâu bà lúc này sẽ rất hiểu bà, thấy thân thiết gắn bó với bà, thực sự coi bà là mẹ. Và nghĩa là “đám cưới” đã xong. Chẳng lễ nghi, không đưa đón, tấm lòng chân thật, nhân hậu của người mẹ nghèo đã thay thế tất cả. Đến đây, ta cứ liên tưởng tới mẹ chồng Dần trong “Một đám cưới” (Nam Cao). Người me ấy mở “tài ăn nói”, nói rất nhiều, rất “ngọt ngào” để khỏa lấp cái sự “không có nhiều tiền”, làm “mát lòng mát ruột” cha Dần. Chao ôi, những người mẹ nông dân nghèo trước cách mạng là thế ư? Tình yêu thương con, ý thức trách nhiệm của người làm mẹ khiến họ cưới vợ cho con bằng tất cả những khả năng mình có thể, dẫu chỉ là lời nói… Nhưng nếu mẹ chồng Dần nói rất nhiều thì bà cụ Tứ lúc này lại nói rất ít. Bà khóc. “Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Những giọt nước mắt đã nói lên tất cả tấm lòng chân thật.

Đọc truyện, có lẽ không ai quên được cái cách giấu diếm đầy ngượng ngập, vụng về những dòng nuớc mắt xót thương con của bà lão: “Có đèn đấy à? Ừ thắp lên một tí cho sáng sủa… Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ…”. Bà đã cố nén sự xúc động của mình, đã cố nuốt những giọt nước mắt chát đắng xót xa vào trong trái tim vốn đã chát đắng của một đời tủi cực. Và khi ấy, trước đôi mắt nhòa lệ của người đọc, dòng “nước mắt cứ chảy ròng ròng” sau lời bộc bạch tâm tình với con dâu của bà lão lại hiện lên rõ nét hơn bao giờ hết. Những giọt nước mắt trong suốt từ đôi mắt đục mờ. Những giọt nước mắt lấp lánh tấm lòng cao quí của người mẹ. Những giọt nước mắt mặn mòi như muối của trái tim yêu thương dạt dào như biển cả. Người mẹ già như cố nuốt nước mắt vào trong, cố nén nỗi đau trong lòng để tình thương của mình an ủi các con. Nỗi lo sợ ngày mai mãi chỉ là một niềm riêng không chia sẻ. Bởi trái tim người mẹ ấy hiền hậu nhân từ lắm. Chẳng muốn con buồn, chẳng muốn con đau, chỉ mong con hãy tận hưởng trọn vẹn cái hạnh phúc lứa đôi. Đến đây, ta càng thấm thía hơn một câu danh ngôn: “tình yêu thương của người mẹ dành cho con luôn âm thầm, lặng lẽ như mạch nước ngầm trong lành đi theo con suốt cuộc đời”. Suối nguồn của tình mẹ và những giọt nước mắt, giọt mồ hôi thật thiêng liêng và đáng quý vô cùng. Rồi có ai đã từng ví trong câu hát “tình mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào”, thì đây, những giọt nước mắt buồn thương vẫn mặn mà, nồng ấm, vẫn âm vang nhịp đập thuỷ triều. Kim Lân đã tâm sự khi viết tác phẩm này, phải đến tận khi tất cả niềm tin của ba con người nghèo khổ trong ngôi nhà lụp sụp, tăm tối kia gần như lụi tắt thì cũng là lúc bà cụ Tứ thắp lên ánh sáng ngọn đèn dầu. Mẹ kêu con thắp đèn lên “cho sáng sủa” hay chính tình yêu bao la của mẹ đang toả sáng cho hạnh phúc của các con…Bà dành lời cho bữa cơm mừng con dâu ngày hôm sau – “toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này”, bà say sưa bàn với các con những dự định cho tương lai… Để ý ta sẽ thấy chính bà lão “gần đất xa trời” này lại là người nói đến tương lai nhiều hơn tất cả. Không đơn thuần chỉ là tâm lí lạc quan khỏe khoắn của người lao động, đó là cả niềm ao ước thiết tha về một ngày mai sáng sủa hơn cho con của người mẹ nghèo. Có thể bà chẳng còn sống được mấy nữa. Nhưng bà sống vì con, tìm thấy ý nghĩa đời mình trong sự chăm lo vun vén cho con. Bởi những ước muốn, hi vọng đâu chỉ dành cho tuổi trẻ – nó trở nên đậm sâu, nồng thắm hơn trong tấm lòng của những người mẹ nghèo như bà cụ Tứ. Ai dám bảo bà lão lẩm cẩm, dớ dẩn? Ai dám cười những ước mong, dự định của bà? Cái gốc lạc quan, yêu thương không những không tàn héo đi mà ngược lại càng xanh tươi hơn trong mưa nắng cuộc đời tâm tình ấy làm ta xúc động, thấm thía bao điều…

Niềm tin của bà mẹ ấy đã chuyển hoá thành niềm vui. Bà vui trong công việc “sửa sang nhà cửa vườn tược”. Nó khiến bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, “cái mặt bủng beo, u ám của bà bỗng rạng rỡ hẳn lên”. Bà đã chủ động tạo nên niềm vui đó trong ngày đầu tiên gia đình đón chào một nàng dâu mới: bà dậy từ rất sớm, bà “xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa, giẫy những búi cỏ mọc nham nhở trong vườn”. Bởi bà hiểu rằng, bắt đầu từ hôm nay đã đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời các con mình, chúng nó đã nên vợ nên chồng và bà cảm thấy mình phải vun vén cho hạnh phúc của các con.

Buổi sáng hôm nay, bà đã đon đả lo chu tất, chuẩn bị bữa cơm đón dâu, nhưng “bữa cơm ngày đói thật thảm hại” lại chỉ là một bữa “tiệc” với món cháo loãng và món “chè khoán” đắng chát, nhưng bà vẫn cố tạo ra không khí ấm cúng, vui vẻ để động viên, làm giảm bớt nỗi thất vọng cho các con. Dù cuộc sống này có khắc nghiệt, ngặt nghèo đến tàn bạo, đầy đoạ mẹ con bà, bà vẫn nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này, chuyện nuôi đôi gà cho nó sinh sôi nảy nở thành đàn gà con… Người mẹ già ấy vẫn nghĩ đến cái sống, nghĩ đến ánh sáng của ngày mai ngay bên bờ vực thẳm của cái chết. Hình ảnh đàn gà sinh sôi trong bữa cơm ngày đói đã nói lên sức sống kì diệu của người lao động. Nhưng xúc động nhất là nồi cháo cám mà bà đã cố tình giấu con trai, con dâu cho đến phút cuối cùng. Người đọc cười ra nước mắt trước sự hào hứng vui vẻ khi bà “lễ mễ bưng nồi cháo cám nghi ngút khói” lên nhà, tươi cười đon đả múc cho các con rồi mời mọc: “cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ ăn thử mà xem”. Nhưng ta biết, bên trong cái vẻ tươi tỉnh niềm nở ấy, lòng mẹ đang quặn thắt. Cái món mà bà cụ Tứ gọi là “chè khoán” ấy hoá ra lại là cám, gọi như vậy để cho các con bớt tủi thân, lời mời mọc của bà là lời động viên, an ủi. Bà muốn con được no đủ, hạnh phúc trong một việc làm mà bà cố gắng tạo nên dẫu biết rằng đó chỉ là ảo giác, sau đó thực tại sẽ lại trở về nguyên bản, bẽ bàng và chua chát. Dường như bà có ý xua tan đi không khí ảm đạm, cố che đậy, vùi đi thực cảnh thê lương. Có một chi tiết trong thế tương phản mà Kim Lân đã miêu tả trong tác phẩm này để ta hiểu hết được tấm lòng sâu kín của người mẹ. Bát cháo cám là tâm điểm thu hút ánh nhìn của ba nhân vật trong tác phẩm. Mỗi nhân vật đón nhận theo một cách khác nhau. Từ đó lóe sáng lên tư tưởng chủ đạo nhà văn gửi gắm. Thị nhìn nồi cháo cám mà hai mắt thị tối sầm lại. Còn Tràng thì chun ngay mặt lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Còn bà mẹ già vẫn khen ngon đáo để – ăn một cách ngon lành. Hai con người trẻ khỏe, mà còn không muốn nuốt mà bà mẹ già gần đất xa trời lại ăn ngon lành. Phải chăng đó là một việc làm vượt trên cả một tình yêu thương, mà chiều sâu của nó là nghị lực sống của bà mẹ nghèo, đang cố bùng cháy sáng dù chỉ là trong khoảnh khắc để nhen lên niềm tin, hi vọng cho những đứa con thân yêu của mình để chúng có đủ sức mạnh vượt qua những khó khăn đang ngập đầy trước mắt. Nhưng thật tội nghiệp cho bà lão, tội nghiệp thay cho cái niềm vui bé nhỏ chới với giữa một bể bi thương, khi mà màu sắc của hiện tại phải được trả về đúng nghĩa của nó. “Bà không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc”. Một lần nữa, người mẹ lại nuốt đắng cay vào trong để hi vọng mong manh còn đủ sức soi đường con bước. Những giọt nước mắt lại rơi, giọt nước mắt đầy ám ảnh…Có thể, người đàn bà ấy chẳng còn sống, còn gần các con được lâu nữa. Nhưng bà sống trọn một đời vì các con, tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình trong sự chăm lo, vun vén cho con, mơ ước cho con. Bằng tất cả sự nâng niu trân trọng, Kim Lân đã để trái tim đập cùng một nhịp đập với trái tim người mẹ nông dân. Viết về bà cụ Tứ, nhà văn thực sự đã trở thành “người nhân đạo đến tận xương tuỷ” – (Sê khốp).

Kim Lân đã sử dụng điểm nhìn trần thuật, nhà văn đã nương theo những suy nghĩ, điểm nhìn của nhân vật để kể chuyện, khiến cho người đọc có cái nhìn chân thực, khách quan hơn. Cùng với đó, việc dùng lời kể nửa trực tiếp, nhà văn đã nhìn bằng cái tâm trạng mang dấu ấn tính cách riêng của nhân vật, cụ thể là bà cụ Tứ, đó cũng là sự thấu hiểu, niềm tin tưởng và yêu thương con người. Nhịp câu văn chậm rãi, lắng đọng, tràn đầy cảm xúc, ngôn ngữ bình dị, gần gũi với đời sống nông thôn. Cốt truyện mà Kim Lân đem đến cho chúng ta thực sự bất ngờ, hấp dẫn bởi sự nối tiếp mạch chặt chẽ. Với sự thấu hiểu, đồng cảm. Kim Lân đã dựng lên một người mẹ điển hình cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam – thương con, vị tha, nhân hậu. Qua đó, tác giả khẳng định tình cảm thiết tha, trân trọng những tấm lòng người mẹ, chính điều này đã tạo nên trang văn chân thật và cảm động hơn bao giờ hết. Mặt khác, tác giả còn khẳng định, đè cao khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc gia đình.

Kim Lân đã dựng lên “hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945″. Một người mẹ hết lòng yêu thương con, hi sinh tất cả vì con. Nhà văn không cố ý xây dựng bà cụ Tứ thành một nhân vật điển hình nhưng bằng tài năng, bằng vốn sống, bằng tình cảm thiết tha, trìu mến đối với tấm lòng người mẹ đã khiến hình ảnh bà cụ Tứ trở nên chân thật và cảm động hơn bao giờ hết. Chính người mẹ già ấy là ánh sáng của thiên truyện ngắn, đằng sau cái bóng tối bi thảm của những kiếp đời nghèo khổ? . Nhân vật cũng góp phần thể hiện rõ cái nhìn đầy nhân ái của nhà văn về con người: “Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người” Ánh sáng ấy làm câu truyện trở nên thấm thía, cảm động hơn, nâng truyện ngắn “Vợ nhặt” lên tầm cao, mang chiều sâu của một truyện ngắn hiện thực – nhân bản.


Bài viết của Lê Thị Thanh Ngân gửi về hòm mail của Thích Văn học.
Ảnh: Nhất Linh.

Xem thêm:

Giọt nước mắt của bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt – Kim Lân

Tham khảo các bài văn mẫu cơ bản tại chuyên mục: https://thichvanhoc.com.vn/van-mau/co-ban/

Đón xem các bài viết mới nhất trên fanpage FB: Thích Văn Học