Nói với con – Y Phương (bài viết nâng cao)

Tham khảo: Trọn bộ tài liệu ôn thi vào lớp 10 (có đáp án).

Đề bài: Có ý kiến cho rằng: “Đọc một câu thơ hay, người ta không thấy câu thơ, chỉ còn thấy tình người trong đó”. Từ cảm nhận về bài thơ Nói với con của Y Phương, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.  (Đề thi chọn HSG Ngữ văn 9, tỉnh Phú Thọ)

Bài làm

Thơ là gì? Sao mà người ta yêu thơ như máu thịt, sao những kẻ sĩ bốn phương đều chọn thơ, đều chọn những vần luật ấy làm nơi nương náu tâm tư vĩnh cửu. Hỡi ôi, thế gian này nếu không có thơ thì tẻ nhạt biết chừng nào. Trên đồng cỏ mênh mông, trên những triền đê đón gió đầu hạ, đâu đâu ta cũng có thể nghe thấy tiếng thơ vì đó là tiếng lòng. Thơ là men rượu của đời, thơ là cung đàn tình ái, thơ là gã say đi tìm chân thiện mĩ. Thơ là dạng gốc của văn chương, là tấm gương của tâm hồn, là tiếng nói của tình cảm con người, những rung động của trái tim trước cuộc đời. Thơ là kết quả của quá trình nuôi dưỡng cảm hứng, thai nghén để tạo ra một thế giới sinh động, hấp dẫn. Thơ mang đậm dấu ấn cá nhân của chủ thể sáng tạo, chứa đựng tình cảm, cảm xúc riêng nhất. Chính vì thế mà có ý kiến cho rằng: “Đọc một câu thơ hay, người ta không thấy câu thơ, chỉ còn thấy tình người trong đó.”. Đến với bài thơ “Nói với con” của nhà thơ Y Phương là một bài thơ thấm đượm “tình người”, chứa đựng biết bao cảm xúc, tình cảm như thế.

 

“Tác phẩm văn học như con quay kì lạ, chỉ có thể xuất hiện trong vận động. Muốn làm cho nó xuất hiện cần phải có một hoạt động cụ thể là sự đọc. Tác phẩm văn học chỉ kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp tục” (J Paul. Sartre). Sự đọc đơn giản là quá trình tiếp nhận, tìm hiểu, suy ngẫm thi phẩm nhưng chính là máu để biến một thể xác vật chất thành một sinh thể có cảm xúc, có vui buồn, có trăn trở. Khi “đọc một câu thơ hay” chẳng những mang đến cho người đọc, người nghe thấy “câu thơ hay” mà còn thấy trong thơ chứa đựng “tình người. Để cảm nhận đầy đủ những lớp nghĩa của thơ ca, cảm nhận vẻ đẹp của hình thức thơ, bạn đọc phải dụng công rất nhiều. Do vậy, đọc một bài thơ hay “người ta không thấy câu thơ, chỉ còn thấy tình người trong đó”. “Chỉ còn thấy tình người trong đó” người đọc cần đọc nhiều lần để khám phá ra sự hấp dẫn về nghệ thuật, sự phong phú về nội dung tình cảm cũng như chiều sâu ý nghĩa của bài thơ. Đọc thơ không phải chỉ bằng trí tuệ hay cảm xúc, lý trí hay tình cảm, phải đọc bằng tất cả năng lực tinh thần của mình, bằng “tất cả tâm hồn” để cảm và hiểu cái hay cái đẹp của thơ, cho đến lúc tự bài thơ phát sáng làm rung lên mọi cung bậc tình cảm trong tâm hồn người đọc. Từ ý nghĩa cụ thể của từ ngữ, có thể hiểu ý kiến của trên đề cập đến giá trị của thơ từ góc nhìn của người thưởng thức, tiếp nhận thơ: Giá trị của thơ là giá trị của những tư tưởng tình cảm được biểu hiện trong thơ. Tình cảm, cảm xúc càng sâu sắc mạnh mẽ, càng lớn lao đẹp đẽ sẽ càng khiến thơ lay động lòng người.

 

Sẽ có lắm lúc tôi tự hỏi đôi cánh nào mang thơ ca đến bên người nghệ sĩ, đốt lên ngọn lửa họ yêu và gột rửa vết hằn của thời gian? Và điều gì đã làm những người phu chữ yêu thắm thiết con chữ đến vậy. Thi ca suốt cả cuộc đời mình đi cùng thời đại, cùng thế giới nhân sinh phức tạp để rồi mỗi linh hồn nơi trần gian tìm được bến đỗ cho riêng cho mình. Lê Quý Đôn từng nói: “Thơ là khởi phát tự lòng người”. Còn nhà thơ tình xuân diệu thì cho rằng: “Thơ là chín đỏ trong cảm xúc”. Tất cả những nhận định đều chính xác, đều xuất phát từ tư tưởng nghệ thuật riêng của mỗi người. Thơ kích hoạt dây đàn cảm xúc con người, là công trình nghệ thuật ngôn từ vĩ đại mà những bậc tiền nhân đã tạo nên. Công trình ấy vĩ đại vì nó có tình người, có tình yêu thương, mang lại cảm giác được an ủi nơi tâm hồn độc giả. Anh làm thơ, đúng ấy là tác phẩm mang tên anh nhưng anh phải viết cho dân tộc, cho con người, viết thay cho những lời ca chưa thể nói, thứ cảm xúc chưa thể giải bày. Cách làm cho người ta không quên đi ấy là tiếng nói của cảm xúc, tình cảm, đó chính là thứ kim chỉ nam giúp tác phẩm tồn tại ngàn đời, để rồi ở thời đại nào cũng thế, bạn đọc sẽ tìm thấy điều mình cần tìm, sẽ yêu lấy thơ ca, yêu lấy chính cuộc đời đẹp đẽ mà mình đang sống. Nó thôi thúc ta tìm về với cõi thiên lương, thôi thúc ta tỏa sáng giữa đêm trời huy hoàng rực rỡ.

 

Có thể nói mỗi câu thơ ra đời đều là kết quả của những trăn trở, suy tư, nung nấu ở người nghệ sĩ. Cho nên Lec-môn-tôp từng nói: “Có những đêm rất khổ không ngủ được, mắt rực cháy và lòng thổn thức, lòng tràn ngập nhớ nhung, khi đó tồi viết”. Có thể chỉ qua một câu thơ mà thấy được tư tưởng, tình cảm, suy nghĩ của nhà thơ. Đọc những áng thơ ca trữ tình dân gian, người đọc sẽ cảm nhận được tâm hồn của những người bình dân. Đó là những người giàu tình nặng nghĩa, luôn mang trong mình niềm lạc quan và những tình cảm thiêng liêng, cao quý khác. Đi theo dòng chảy của thời gian, đến với văn học trung đại, người đọc cũng sẽ bắt gặp những tâm hồn hết sức đặc biệt. Đó là Hồ Xuân Hương với tâm hồn nồng nhiệt dù là ở thơ trào phúng hay thơ trữ tình, thơ bà luôn thể hiện một sự ngang tàng và quyết liệt. Bên cạnh đó là Bà Huyện Thanh Quan với điệu hồn phổ quát của con người ở mọi thời đại, đó là sự gắn bó với quê hương, với gia đình của nữ sĩ.

 

Từ thuở thơ ca xuất hiện mang đến hơi thở ấm áp cho hành tinh xanh xanh, điệp trùng những cánh rừng tươi thắm của chúng ta, nó vẫn luôn nắm giữ một quyền lực tối cao. Tôi không biết được thơ ca từ khi nào có mặt ở thế giới loài người, cũng chẳng biết được ai được mệnh danh là thi sĩ đầu tiên trên thế giới. Tôi chỉ biết với thời đại mình đang sống, mang trong mình trái tim nhiệt huyết của tuổi trẻ và tình cảm mãnh liệt dạt dào, thơ ca đã xuất hiện và sẽ mãi là phần đặc biệt nhất nơi con tim mình. Tại sao văn học nói chúng và thi ca nói riêng phải có yếu tố tình người, phải biến được tiếng nói của mình hòa trong tiếng nói của nhân dân? Vì bản chân, cốt lõi của nghệ thuật là yêu thương, là hướng con người về với chân thiện mỹ, giáo dục họ, rọi sáng con đường họ đi như cái cách chàng danko đã anh dũng dùng trái tim mình soi sáng cho bộ tộc qua bùn lầy. Lê Đạt chẳng phải từng nói “đọc một câu thơ hay, ta cảm giác như đứng trước một bến đò gió nổi, một khao khát sang sông, một lên đường hướng thiện đến với những chân trời tốt đẹp hơn” hay sao. Hoặc như Chế Lan Viên “Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết vàng mà đời rơi vãi/ Hãy nhặt lấy con chữ ở đời mà góp nên trang”. Con người tìm đến thơ như muốn tìm đến sự đồng cảm, về thế giới mình đang sống, về những mảnh đời còn khổ đau mà qua ngòi bút ấy, họ được yêu thương, bảo vệ cất lên tiếng nói đòi quyền làm người. Giáo dục, yêu thương là khâu đầu tiên trong việc sáng tạo, hiện thực khách quan chỉ là một phần trong hành trình gian lao nay, cách nhìn của tác giả qua lăng kính chủ quan mới là điều tạo nên sự thành hay bại trong sự nghiệp của anh. Tác giả làm thơ không chỉ cho riêng anh, không chỉ để trưng bày hay giới thiệu, anh làm thơ là là cho đọc giả mình, cho đồng bào mình, cho nhân loại mình. Ấy buộc phải là tiếng nói của thời đại, của cách nhìn thấu sáu cõi, nghĩ suốt ngàn đời. Ấy buộc phải là lời nói thay cho những con tim còn dở dành, cho tâm hồn còn tan vỡ, thay cho sự bất công, tội nghiệp của mỗi số phận đang thương. Đó là điều quan trọng mà anh cần xem trọng, nó như thước đo cho sự thành công, cho cái tài cái tâm nơi mỗi thi sĩ. “Thơ – nếu không có người tôi đã mồ côi”.

 

Nhà thơ Y Phương là người dân tộc Tày, ông là một trong những gương mặt tiêu biểu thuộc lớp các nhà thơ dân tộc miền núi. Thơ ông là tiếng hát ngợi ca con người và cuộc sống miền núi, là sự thức tỉnh ý thức dân tộc, khẳng định sức sống mạnh mẽ của dân tộc mình.” Thơ Y Phương như một bức tranh thổ cẩm đan dệt nhiều màu sắc khác nhau, phong phú và đa dạng nhưng trong đó có một màu sắc chủ đạo, âm điệu chính là bản sắc dân tộc rất đậm nét và độc đáo. Nét độc đáo nằm ở cả nội dung và hình thức. Với Y Phương, thơ của dân tộc Tày nói riêng và thơ Việt Nam nói chung có thêm một giọng điệu mới, một phong cách mới “. Chính những lao động của nhà thơ là một hoạt động tinh thần đầy khổ luyện. Để có những tác phẩm thơ hay nhà văn phải lăn lộn với đời. Nói như Chế Lan Viên:” Hãy biết ơn vị muối của đời để có thơ có thêm chất mặn “. Nếu không có những năm tháng sống trong hoàn cảnh đất nước ta còn gặp muôn vàn khó khăn, thiếu thốn khi đất nước được sống trong hòa bình chính là chất liệu để Y Phương viết lên tác phẩm “Nói với con”. Mượn lời nói với con, Y Phương đã bộc lộ niềm tự hào về truyền thống cần cù, sức sống bền bỉ, mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mình.

 

Nhà thơ Y Phương đã thể hiện “tình người” đậm đà, thắm thiết bằng tình cảm, cảm xúc mãnh liệt, sâu sắc khiến trái tim bạn đọc rung động và ám ảnh. Có thể nói, tình cảm gia đình là một trong những đề tài quen thuộc của thơ văn. Đã có rất nhiều tác giả khai thác thành công mảng đề tài này. Nữ sĩ tài hoa Xuân Quỳnh lý giải thật dung dị mà chân thành, sâu sắc:

“Muốn cho trẻ hiểu biết

Thế là bố sinh ra

Bố bảo cho biết ngoan

Bố dạy cho biết nghĩ”

(Chuyện cổ tích về loài người)

 

Bên cạnh tình cảm gia đình thắm thiết, cuộc sống lao động và quê hương cũng là yếu tố giúp con trưởng thành và bồi đắp cho con những phẩm chất tốt đẹp. Để thể hiện điều đó, ở khổ trên, Y Phương đã sử dụng những hình ảnh, cách nói của người dân miền núi để nói đến niềm tự hào về quê hương nơi con được sinh ra:

 

“Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười”

 

Một mái nhà có mẹ có cha và có con thật hạnh phúc vì được sống trong tình yêu thương. Cha mẹ đã dìu dắt, nâng đỡ con từ những bước đi đầu tiên, đã tìm thấy niềm vui từ con. Đó hoàn toàn là tiếng lòng hạnh phúc của một người cha khi nhắc về kỷ niệm những ngày con còn thơ ấu, những bước đi chập chững đầu đời đều để lại trong trái tim cha, mẹ những dấu chân đầy ắp kỷ niệm. Bằng những hình ảnh cụ thể, giàu tính chất tạo hình “chân phải”, “chân trái”, “tiếng nói”, “tiếng cười” nhà thơ đã dựng lên trước mắt người đọc hình ảnh của một em bé đang chập chững tập đi và bi bô tập nói bên cạnh cha mẹ. Tiếng nói đầu tiên con gọi “cha”, lần đầu tiên con cười khiến cha mẹ mừng chảy nước mắt, con chính là món quà tuyệt vời nhất mà tạo hóa đã ban cho cha mẹ. Y Phương gợi nhắc quá khứ để gieo vào lòng con về những năm tháng thuở ấu thơ, con có quyền được biết và ghi nhớ chúng như những ký ức đáng giá nhất cuộc đời, đồng thời người cha cũng muốn gợi mở cho con những nền tảng đầu tiên về tình cảm gia đình ấm áp, về quá trình sinh ra và lớn lên của một con người. Không ai có thể tự lớn lên thành người, ai cũng có cha sinh mẹ đẻ, ai cũng cần người chăm sóc, dạy dỗ. Y Phương muốn nhắn nhủ với con về công lao và tình yêu thương vô bờ bến của cha mẹ dành cho con cái từ thuở con sinh ra cho đến khi con lớn khôn thành người, chính bởi tình yêu ấy mà cha chưa lúc nào quên những bước chân, tiếng nói đầu đời của con. Từ đó, Y Phương gợi tả được không khí gia đình thật ấm áp, hạnh phúc, tràn ngập tiếng cười nói của trẻ thơ. Đó là tình cảm gia đình ruột thịt, là công lao trời bể lớn lao và thiêng liêng mà cha mẹ dành cho con cái, muốn người con luôn phải khắc cốt ghi tâm.

 

Thi sĩ Huy Cận cũng từng tâm sự cái giây phút tuyệt vời ấy của mình:

“Được tin con tập đi

Cha mừng không ngủ được

Cha nằm đêm thầm thì

Từng tiễn chân con bước”.​

 

Đứa con trưởng thành trong cuộc sống lao động cần cù của cha mẹ, trong khung cảnh thiên nhiên thơ mộng xinh đẹp của quê hương. Nhìn con lớn lên từng ngày cha mẹ sung sướng mãn nguyện. Con là cuộc đời, là tất cả đối với mẹ cha. Bà mẹ Tà Ôi đã bộc lộ niềm hạnh phúc ấy khi có bên mình đứa con trong lao động tỉa bắp:

 

“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi

Mặt trời của mẹ, con nằm trên lưng”.

(Nguyễn Khoa Điềm)

 

Bên cạnh tình yêu của gia đình con còn được lớn lên trong tình yêu của bản làng, của quê hương, trưởng thành dưới cuộc sống lao động nhộn nhịp của “người đồng mình”,  của bản sắc thiên nhiên vô cùng cao đẹp:

 

“Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”.​

 

Y Phương dùng một giọng thơ tha thiết, để gợi mở ra những vẻ đẹp của người dân tộc miền núi bằng câu thơ chứa chan tình cảm “Người đồng mình yêu lắm con ơi”, chỉ một chữ “yêu” mà chứa đựng biết bao tâm tình, đó là tấm lòng trân trọng, tự hào về những con người của quê hương xứ xở. Những con người lao động với đôi bàn tay thô sơ, nhưng khéo léo, thuần thục trong công việc lao động, để mỗi sản phẩm họ làm ra đều như một tác phẩm nghệ thuật ví như chiếc “lờ” đánh cá cũng phải được chau chuốt “nan hoa”, đó không đơn thuần là hành động tự phát mà đó là cả một quá trình sáng tạo, là nét văn hóa đã in sâu vào tâm hồn người dân kể cả trong công việc lao động thường ngày. Và đặc biệt giữa cuộc sống nhiều khó khăn vất vả thế nhưng tâm hồn của “người đồng mình” vẫn rất đẹp, rất yêu đời, từng câu hát, câu ca trong lối sinh hoạt văn hóa của người Tày không chỉ nằm trong trí nhớ mà đã in sâu vào cả vách nhà, cả quê hương, để mảnh đất này tràn đầy tình yêu thương, với bản sắc dân tộc đong đầy khắp xứ xở. Rồi từ vẻ đẹp trong tâm hồn của con người Y Phương lại khéo léo chuyển sang vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của quê hương với hình ảnh “rừng cho hoa” xanh tươi, rực rỡ tràn đầy sức sống, là hình ảnh đại diện cho phong cảnh miền núi phía Bắc, nơi mà ông và “người đồng mình” đã cùng nhau sinh sống suốt ngàn năm nay. Ngoài ra “rừng cho hoa” còn gợi ra sự trù phú, giàu có của thiên nhiên, đã ban tặng cho cuộc sống của con người niềm vui, cái đẹp, tô điểm thêm cho quê hương. “Con đường cho những tấm lòng” là một hình ảnh có nhiều sức gợi, Lỗ Tấn từng nói: “Trên mặt đất làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Con đường trong thơ Y Phương cũng vậy, nó là kết quả của biết bao dấu chân “người đồng mình” tạo thành, đó là tấm lòng gắn bó với mảnh đất quê hương, là tình cảm kết tinh đẹp đẽ với làng xóm, với đồng bào, với gia đình. Và con đường đã chứng kiến biết bao nhiêu đổi thay của năm tháng, lớp người này ra đi, lớp người kia lại lớn lên, tất cả đều đã đặt dấu chân mình trên con đường thân thuộc có dấu vết của tháng năm, có những giọt mồ hôi và cả nước mắt. Con đường đâu chỉ để đi ngược về xuôi, lên non xuống biển mà còn “cho những tấm lòng” nhân hậu bao dung, con đường tình nghĩa:

 

“Gập ghềnh xuống biển lên non

Con đường tình nghĩa ai còn nhớ chăng?”

 

Có lẽ nói không ngoa thì con đường chính là chứng nhân cho những năm tháng đã qua của cả một cộng đồng dân tộc. Người cha nói với con những điều này với tấm lòng trân trọng yêu thương, chỉ mong con có thể ghi nhớ và khắc sâu vào lòng những gì thân thuộc nhất của quê hương, để khiến con nhận thức được ngoài gia đình thì chính những nét đẹp văn hóa, chính cái nôi của cộng đồng đã nuôi dưỡng con thành người, cho con tiếng nói, cho con những vẻ đẹp tâm hồn quý giá.

 

Và lần nữa người cha lại khắc sâu trong lòng con ấn tượng về tình cảm gia đình qua câu thơ: “Cha vẫn nhớ mãi về ngày cưới/ Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”. Người cha muốn nói về sự ra đời của đứa con yêu thương, đó chính là kết tinh yêu thương của hai tấm lòng, hai trái tim cùng chung nhịp đập và trong kí ức của cha thì ngày đẹp nhất, ý nghĩa nhất trên đời, đó là “ngày cưới”, ngày kết nối hai tấm lòng yêu thương. Nói về những kí ức vui vẻ, người cha như muốn nói với con mình về mái nhà hạnh phúc của mình, bởi đứa con được sinh ra trong tình yêu thương, gắn kết của cha mẹ, đó là một gia đình đầy hạnh phúc. Là lời khẳng định hạnh phúc gia đình, khẳng định thêm về tình cảm gia đình vững chắc là cơ sở để cho con được một cuộc sống êm ấm, và cũng là cơ sở để gây dựng nên một cộng đồng dân tộc với những nét đẹp trong văn hóa, phong tục truyền thống.

 

Trong cái dư vị của cuộc sống lao động, kỉ niệm quê hương, người cha đã tha thiết nói với con về những phẩm chất cao quý của người đồng mình là sức mạnh bền bỉ của quê hương và mong con có thể kế tục những truyền thống cao đẹp đó:

“Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn”​

 

Y Phương viết “Người đồng mình thương lắm con ơi” vừa thể hiện được tấm lòng yêu thương gắn bó tha thiết với dân tộc mình, vừa thể hiện nỗi niềm cảm thông, thấu hiểu trước những vất vả mà “người đồng mình” phải gánh chịu. “Cao” và “xa” là hai lượng từ bình thường nhưng trong thơ Y Phương lại mang nhiều sức gợi đặc biệt, nó khiến độc giả liên tưởng đến một vùng đất núi non trùng điệp, ở xa tít tận địa đầu phía Bắc, cả thời tiết và địa hình đều khắc nghiệt vô cùng. Thế nhưng những con người nơi đây chưa một lần lấy đó làm nản chí, mà ngược lại chính những khó khăn đó đã nuôi dưỡng trong tâm hồn họ sự kiên cường và mộng ước “chí lớn” vững mạnh.

 

Bên cạnh sự ý chí nghị lực vươn lên ấy, mà “người đồng mình” còn có phẩm chất cao đẹp khác, đó là lòng thủy chung, gắn bó với quê hương dù khó khăn, đói nghèo chỉ cần sớm tối bên nhau, truyền cho nhau chút lửa, thì dù nghịch cảnh nào chăng nữa đều có thể vượt qua:

“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc”.​

 

Câu thơ có chút ngậm ngùi, xót xa để diễn tả thực tại đời sống còn nhiều những khó khăn, thiếu thốn của đồng bào vùng cao những đồng thời, cha cũng đầy tự hào trước ý chí, nghị lực vươn lên của họ. Điệp từ “không chê” vang lên đã nhấn mạnh tấm lòng thủy chung, gắn bó với quê hương của người đồng mình, như một lời cam kết đầy tự hào và cũng đầy kiêu hãnh của những người con sinh ra từ mạch nước của rừng và ý chí của đá. Câu thơ đã khắc sâu vào lòng bạn đọc một phẩm chất đáng quý của “người đồng mình” nhưng ta cũng thấy được phảng phất đâu đây nỗi trăn trở của tác giả về hiện thực cuộc sống còn nhiều khó khăn của bà con, làng bản. Bên cạnh đó, hình ảnh so sánh trong câu thơ: “Sống như sông như suối” đã đưa bạn đọc trở về với nụ cười lạc quan của người đồng mình trong lối sống hồn nhiên, trong sáng, mạnh mẽ, phóng khoáng, vượt lên mọi khó khăn: “Lên thác xuống ghềnh/ Không lo cực nhọc”. Họ có thể đơn sơ, mộc mạc, “thô sơ da thịt” nhưng giàu ý chí, niềm tin, “chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”. Điều mà chẳng hề “nhỏ bé” ấy chính là phẩm chất và tâm hồn phong phú, mạnh mẽ, kiên cường của người đồng mình.

 

Ngoài những phẩm chất cao đẹp về ý chí, nghị lực, về lòng thủy chung với quê hương mà “người đồng mình” còn có đức tính cao quý hơn thế nữa, đó lòng yêu bản làng, tôn cao vẻ đẹp truyền thống cao vời của quê hương, của người đồng mình:

“Người đồng mình thô sơ da thịt,

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con,

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương.

Còn quê hương thì làm phong tục”.​

 

Có lẽ hình ảnh “thô sơ da thịt” không còn xa lạ với chúng ta, gợi cho chúng ta thấy sự mộc mạc, đơn giản về vẻ ngoài của những con người quê hương nơi đây, của những người dân tộc miền núi. Tuy thế mà người đồng mình không hề “nhỏ bé” một chút nào, “thô sơ” về vẻ ngoài nhưng giàu về đời sống tâm hồn. Là những người luôn “tự đục đá kê cao quê hương”, tự xây dựng bản thôn, bản làng, phát triển quê hương, biến nó trở thành nơi đầy ắp những tiếng cười của gia đình hạnh phúc, tiếng trò chuyện của những “người đồng mình” . Là những con người giàu ý chí vươn lên trong cuộc sống và giàu lòng chung thủy với nơi quê cha đất tổ – nơi sinh ra của mình, để rồi những đức tính cao đẹp ấy trở thành “phong tục” của quê hương, của dân tộc Đại Việt này, để những phẩm chất tuyệt vời ấy trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc ta.

 

Với những bài học tha thiết về nơi cội nguồn sinh dưỡng, về sự chan chứa nghĩa tình của người đồng mình, thì giờ đây những câu thơ kết chính là lời tâm tình, dặn dò, nhắn nhủ của người cha, chuẩn bị cho con những hành trang trước cuộc đời lắm bão giông, gian khổ:

“Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con.”​

 

Hình ảnh “thô sơ da thịt” được lặp lại lần hai có tác dụng khẳng định và nhấn mạnh lại niềm mong muốn của người cha dành cho con: Người đồng mình tuy mộc mạc, chân chất, bình dị, khẳng khái nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, luôn vươn tới những lẽ sống cao đẹp. Vì thế, trên đường đời, con phải thật tự tin, tự hào về quê hương, sống xứng đáng với “người đồng mình” , không cúi đầu trước giông tố khó khăn, vất vả ở phía trước. Bởi đằng sau con luôn có tình cảm chở che, nâng đỡ của cha mẹ, gia đình, của quê hương và đặc biệt trong bản thân con chất chứa phẩm chất quý báu của “người đồng mình” . Hai tiếng “nghe con” ở cuối bài thơ chứa đựng biết bao nhiêu là yêu thương và niềm tin của người cha dành cho con, nhẹ nhàng, xao xuyến.

 

Cha mẹ đã cho con một hành trang quý giá – phẩm chất của “người đồng mình”, mong rằng con sẽ nhớ, sẽ khắc ghi và bước đi thật hiên ngang trên con đường mình đã chọn. Có như vậy mới xứng đáng công sinh thành dưỡng dục của mẹ cha, với sự yêu thương, đùm bọc của “người đồng mình”, với cốt cách ngoan cường, bất khuất của bao thế hệ cha anh. Trên đường đời chông gai, một điều “con” phải rõ:

“Không có gì tự đến đâu con

Quả muốn ngọt phải ngày tháng tích nhựa

Hoa sẽ thơm khi trải qua nắng lửa

Mùa bội thu trải một nắng hai sương”

 

Trong bài thơ “Nói với con” – Y Phương không chỉ thể hiện được nội dung, tình cảm của tác giả mà còn được thể hiện bằng hình thức nghệ thuật đặc sắc. Y Phương cũng đã rất thành công khi vận dụng ngôn ngữ giản dị, mộc mạc nhưng giàu hình ảnh, cô đọng, hàm súc, ý tứ sâu xa, có sức quyến rũ kỳ lạ, khơi gợi nhiều liên tưởng, có người đã nhận xét: ” Quả là một thứ ngôn ngữ thể cẩm quyến rũ”. Quả đúng là một thứ ngôn ngữ thổ cẩm đơn giản mà đầy sức quyến rũ. Bài thơ có sức truyền cảm nó biểu hiện những tình cảm vừa gần gũi vừa thiêng liêng, đẹp đẽ. Tình yêu thương con hòa quyện trong tình yêu sâu đậm và niềm tự hào lớn lao quê hương, xứ sở, yêu dân tộc, tình yêu đất nước. Bài thơ chính là một đóa hoa thơm góp vào mảng đề tài quê hương, đất nước. Cho ta thêm yêu thêm nhớ về quê nhà thân thuộc của mình:

 

“Quê hương ơi! Xa rồi nhớ thành thơ

Tiếng mẹ đẻ, gặp nhau mừng khôn xiết

Ai cũng vậy xa lâu rồi mới biết

Những ngôn từ không đủ viết…quê hương!”.

(Nhớ quê hương – Ngô Hữu Đoàn)

 

Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, số câu số chữ không khuôn định, phù hợp với mạch cảm xúc tự nhiên, linh hoạt (Mạch cảm xúc phát triển từ tình cảm gia đình mở rộng ra tình cảm quê hương, đất nước; từ những kỉ niệm gần gũi thiết tha nâng lên thành lẽ sống cao đẹp. Cảm xúc thơ bộc lộ chủ đề, dẫn dắt tự nhiên, có tầm khái quát và vô cùng thấm thía). Nhịp điệu bay bổng lúc nhẹ nhàng nhưng giàu hình ảnh, cô đọng, hàm súc, ý tứ dứt khoát.. tạo ra sự cộng hưởng hài hòa với những cung bậc tình cảm khác nhau trong lời cha truyền thấm sang cho con. Cách xây dựng hình ảnh cụ thể có tính khái quát mộc mạc mà vẫn dẫu chất thơ. Phải là người con của núi rừng, được sinh ra và lớn lên; được sống trong vòng tay yêu thương của “người đồng mình” và nặng lòng với xứ sở quê hương thì Y Phương mới có thể tạo nên những vần thơ da diết và lắng sâu đến như thế. Tác giả đã mượn lời cha nói với con để từ đó kín đáo gửi gắm bài học sâu sắc về lòng biết ơn đối với cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người Việt Nam. Đồng thời bộc lộ niềm tự hào về những nét đẹp của dân tộc và quê hương mình một cách kín đáo, sâu sắc.

 

Đọc bài thơ của Y Phương ta hiểu hơn về vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ. Ông mang một vẻ đẹp của một tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng. Và ý kiến đề cao tư tưởng tình cảm, cảm xúc của người nghệ sĩ tuy nhiên để có một câu thơ hay, một tác phẩm văn học có giá trị đòi hỏi tài năng của người cầm bút. Để có được cái “tình người” trong thơ, người nghệ sĩ cần phải có trái tim mẫn tiệp, ấm nóng tình đời, phải có trách nhiệm với những gì mình viết ra, tâm huyết, tình cảm được mã hóa, gửi gắm vào tác phẩm. Nói như vậy không có nghĩa là ta bỏ qua giá trị của hình thức thơ ca, song, cần phải hiểu, hình thức thơ phải mang tính nội dung. Một nghệ sĩ thật sự biết chắt lọc ngôn từ để dùng nó làm phương tiện, chuyển hóa ngôn ngữ thành hình tượng nghệ thuật có sức gợi đến tình người. Đối với người người tiếp nhận cần thấy văn chương mở rộng khả năng của tâm hồn con người. Từ đó, có sự tri âm, sự đồng cảm với tác phẩm, với nhà thơ, nhà văn để có thể sẻ chia những tình cảm đồng điệu. Khi ấy, văn chương sẽ có sức sống lâu bền trong lòng người đọc nhiều thế hệ.

 

Quả thực, khi chúng ta “đọc một câu thơ hay” cũng là lúc “thấy tình người trong đó”. “Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở thành bất tử.” (Shelly). Có những giá trị vững bền của cuộc sống được lưu giữ lại nhờ những vần thơ, có những nhịp ngân của tâm hồn được in dấu lại qua mỗi trang văn. Có lẽ thơ ca ra đời để làm bạn với con người, để người đọc đồng cảm, sẻ chia với tâm hồn người nghệ sĩ trong mọi vui buồn của cuộc sống, để rồi:

“Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ.

Như  đám mây ngũ sắc ngủ trên đầu”.

| Bài viết của bạn Nguyễn Mai Anh

Xem thêm:

  • Tham khảo bộ tài liệu ôn thi vào lớp 10: Tài liệu
  • Tham khảo các bài văn mẫu tại chuyên mục: Văn Mẫu
  • Đón xem các bài viết mới nhất trên fanpage FB: Thích Văn Học