Tiếp nối Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Khuyến cũng đã ghi dấu ấn đậm nét ở mảng thơ Nôm Đường luật. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và nhà thơ Tam Nguyên Yên Đổ thực sự đã có những đóng góp độc đáo, mới mẻ, tạo nên những trang thơ đầy sáng tạo trên văn đàn.
Để hiểu rõ hơn về thơ Nôm Đường luật của hai tác giả này, hãy cùng theo dõi bài viết của Thích Văn Học nhé!
Những nét chung về Nguyễn Bỉnh Khiêm
– Vị trí: Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà chính trị, nhà giáo dục, nhà tư tưởng, nhà thơ lớn trong lịch sử dân tộc, có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng trong thế kỷ XVI, “cây đại thụ” của văn chương nước nhà.
– Sự nghiệp văn chương:
- Đặc điểm thơ: Mang đậm chất triết lí, giáo huấn, ngợi ca chí của kẻ sĩ, thú thanh nhàn, đồng thời phê phán những điều xấu xa trong xã hội.
- Tác phẩm: Tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập (khoảng 700 bài) và tập thơ chữ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi (khoảng trên 170 bài).
Những nét chung về Nguyễn Khuyến
– Vị trí: Lịch sử văn học Việt Nam ghi nhận thơ văn Nguyễn Khuyến là thành tựu cuối cùng của nền văn học trung đại, là nhà thơ cổ điển cuối cùng viết dưới ảnh hưởng của ý thức hệ phong kiến bằng chữ Hán. Nguyễn Khuyến cũng được mệnh danh là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam.
– Sự nghiệp:
- Đặc điểm thơ: Thơ Nguyễn Khuyến nói lên tình yêu quê hương đất nước, gia đình, bè bạn; phản ánh cuộc sống của những con người khổ cực, thuần hậu, chất phác; đả kích thực dân và tầng lớp thống trị.
- Tác phẩm: Hiện còn 800 bài gồm thơ, văn, câu đối nhưng chủ yếu là thơ, đóng góp nổi bật của ông là ở mảng thơ Nôm, thơ viết về làng quê, thơ trào phúng.
Ví dụ: Phân tích bài thơ: “Thế gian biến đổi” (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
“Thế gian biến cải vũng nên đồi,
Mặn nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi
Còn bạc, còn tiền còn đệ tử
Hết cơm, hết gạo hết ông tôi.
Xưa nay đều trọng người chân thực,
Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi.
Ở thế mới hay người thế bạc,
Giàu thì tìm đến, khó tìm lui.”
(Thế gian biến đổi, Bạch Vân quốc ngữ thi tập, Nguyễn Bỉnh Khiêm)
– Hai câu đề:
- Thế gian biến cải vũng nên đồi: Câu thơ khái quát quy luật vận động không ngừng của đời sống. Vạn vật trên thế gian không đứng yên, tĩnh tại mà luôn xoay vần, biến chuyển, đổi thay.
- Mặn nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi: Những gia vị khác nhau của cuộc sống với cả vinh lẫn nhục, thành lẫn bại, hạnh phúc lẫn đắng cay. Cuộc sống là sự dung hợp giữa nhiều cảm xúc, ba chìm bảy nổi, hợp tan vô thường.
– Hai câu thực:
- Phép đối (còn tiền, còn bạc – hết cơm, hết gạo; còn đệ tử – hết ông tôi) đã khắc họa hiện thực phũ phàng của đời sống: Khi giàu sang phú quý, người ta có nhiều kẻ theo hầu, bè bạn; nhưng khi sa cơ lỡ vận, người khác người, hết tình hết nghĩa.
→ Phép đối làm nổi bật lối sống thực dụng, giả tạo, tham lam, bạc tình bạc nghĩa của người đời.
– Hai câu luận:
- Xưa nay đều trọng người chân thực: Tác giả đề cao đức tính thật thà, ngay thẳng của con người. Đồng thời, ông khẳng định, dù thời thế có thay đổi, thì xưa đến nay, người trung thực vẫn luôn được trọng dụng, tôn vinh.
- Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi: Nhà thơ phê phán những kẻ xảo trá, giả dối, hình thức, chỉ biết nịnh hót, những kẻ ấy sẽ mãi bị người đời khinh thường, phỉ báng.
– Hai câu kết:
- Ở thế mới hay người thế bạc: Tác giả chua xót nhận ra người thế bạc – tức là con người trần thế rất bội bạc, ích kỉ, vô tình, chỉ nghĩ đến lợi ích của riêng mình.
- Giàu thì tìm đến, khó tìm lui : Phép tiểu đối được tác giả sử dụng thành công (giàu – khó, tìm đến – tìm lui). Động từ tìm đến gợi cảm giác chủ động, thể hiện sự vồ vập với mục đích cầu danh lợi trong khi tìm lui lại hàm ý sự lẩn tránh, phũ phàng khi đã hết giá trị lợi dụng.
→ Nhà thơ bộc lộ sự phê phán đối với tâm lý vụ lợi của con người.
Nhận xét chung:
– Nội dung:
- Bài thơ phản ánh, phê phán lối sống thực dụng, vụ lợi, ích kỷ, sự thay đổi chóng vánh của lòng người dưới sức ép của đồng tiền.
- Nhà thơ khuyên răn, nhắn nhủ mỗi người phải giữ trọn sự ngay thẳng, chân thật, thật thà, không vì danh lợi mà cong lưng uốn gối, đánh mất phẩm chất cao quý.
– Nghệ thuật:
- Thể thơ thất ngôn bát cú đường luật; Giọng thơ suy tư, giàu chất triết lý; Ngôn ngữ và hình ảnh thơ giản dị, chân thực; Sử dụng thành công nghệ thuật đối, phép liệt kê,..
Ví dụ: Phân tích bài thơ “Chợ Đồng” (Nguyễn Khuyến)
“Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng
Năm nay chợ họp có đông không?
Dở trời, mưa bụi còn hơi rét.
Nếm rượu, tường đền được mấy ông?
Hàng quán người về nghe xáo xác,
Nợ nần năm hết hỏi lung tung.
Dăm ba ngày nữa tin xuân tới.
Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng.”
– Hai câu đề:
- Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng: Chợ Đồng là một phiên chợ họp ở làng Vị Hạ. Hàng năm, cứ đến phiên cuối tháng Chạp (chợ sắm Tết), nhân dân lại dời chợ ra họp ở một cách ruộng mạ phía sau làng, nên gọi là chợ Đồng.
- Năm nay chợ họp có đông không?: Câu hỏi tu từ thể hiện sự nghi vấn, thực chất là một tiếng thở dài chứa đầy tâm trạng của nhà thơ.
– Hai câu thực:
- Dở trời, mưa bụi còn hơi rét: Câu thơ khắc họa thời tiết đặc trưng của miền Bắc độ sang xuân. Trời mưa phùn, hạt nhỏ li ti, lại có không khí lạnh ùa về. Câu thơ vừa tả cảnh, vừa khéo gợi sự liên tưởng đến sự lam lũ, lầm than của bà con dân cày.
- Nếm rượu, tường đền được mấy ông?: Câu thơ kết thúc bằng dấu hỏi, tạo câu nghi vấn, thể hiện nỗi buồn của Nguyễn Khuyến khi chỉ còn ít người giữ được phong tục xưa.
– Hai câu luận:
- Phép đối (nghe xáo xác – hỏi lung tung) đã làm nổi bật cảnh tan chợ buồn tẻ, tiêu điều, không náo nức, không nhộn nhịp mà loạn xạ, trống vắng, đầy rẫy bất an. Từ đó, nhà thơ khắc họa cuộc sống cơ cực, nợ nần, thiếu thốn, triền miên trong đói nghèo của người dân.
– Hai câu kết:
- Dăm ba ngày nữa tin xuân tới: Nghĩa thực là một lời trần thuật, chỉ còn ít ngày là đến Tết, không khí xuân đã sắp tràn về. Tin xuân tới cũng là chỉ dấu, ước vọng cho một năm mới thuận buồm xuôi gió, ngày nhân dân thoát ra khỏi nỗi cơ hàn.
- Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng:
- Pháo trúc: Từ điển tích Lý Điền dùng ống trúc đốt lửa nổ thành tiếng to, quỷ sợ chạy mất, người sau cứ đến Tết là đốt pháo để trừ ma quỷ.
- Nhà ai: Nhà ai là không rõ từ nhà nào, rất mơ hồ, xa xăm, không xác định. Câu thơ tạo sự nghi vấn, không chắc chắn, từ đó càng làm nổi bật nỗi trống vắng, cô đơn trong lòng nhà thơ.
Nhận xét chung:
– Nội dung:
- Bức tranh tiêu điều, vắng vẻ, xáo xác của phiên chợ Đồng trong không gian mưa bụi trắng trời, rét mướt. Từ đó, làm nổi bật cuộc sống cơ hàn, khó khăn, đói khổ của nhân dân.
- Cảm xúc của tác giả: Buồn tủi, cô đơn trước phiên chợ vắng người; Ngậm ngùi, thương cảm, xót xa trước cuộc sống túng thiếu, nợ nần của nhân dân; Le lói một niềm ước mong tốt đẹp cho cuộc sống của dân nghèo khi “tin xuân tới”.
– Nghệ thuật:
- Thể thơ thất ngôn bát cú; Ngôn ngữ thơ bình dị, hình ảnh thơ gần gũi, đậm chất nông thôn Bắc bộ; Giọng thơ trầm lặng, đượm buồn; Sử dụng tinh tế và hiệu quả câu hỏi tu từ, từ láy…
Thơ Nôm Đường luật của tác gia Nguyễn Trãi
Sự chuyển mình mạnh mẽ trong phong cách sáng tác của Huy Cận
Xem thêm:
- Lớp văn cô Ngọc Anh trực tiếp giảng dạy tại Hà Nội: Tìm hiểu thêm
- Tham khảo sách Chuyên đề Lí luận văn học phiên bản 2025: Tủ sách Thích Văn học
- Tham khảo bộ tài liệu độc quyền của Thích Văn học siêu hot: Tài liệu
- Đón xem các bài viết mới nhất trên fanpage FB: Thích Văn Học



