“Lời chào” là tác phẩm văn chương nổi bật của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Bài thơ là khúc hát tri ân chan chứa nghĩa tình, là bản hòa ca của lòng biết ơn và tình yêu quê hương, đất nước. Qua những hình ảnh bình dị và ngôn ngữ giàu sức gợi, tác giả đã gửi gắm những rung cảm sâu sắc về tuổi thơ, về mẹ, về tình yêu quê hương và hành trình trưởng thành của con người.
Thích Văn học gửi đến bạn một bài văn tham khảo, cảm nhận về tác phẩm “Lời chào” của Nguyễn Khoa Điềm. Mong rằng bài viết sẽ giúp bạn thêm yêu thơ ca và trân quý những giá trị bình dị trong cuộc sống!
Đề bài
Viết bài văn trình bày cảm nhận về bài thơ sau, từ đó nhận xét đặc sắc nghệ thuật nổi bật:
LỜI CHÀO
Ta lớn lên bối rối một sắc hồng
Phượng cứ nở hoài như đếm tuổi
Như chiều nay, một buổi chiều dữ dội
Ta nhận ra mình đang lớn khôn…
Biết ơn những cánh sẻ nâu đã bay đến cánh đồng
Rút những cọng rơm vàng về kết tổ
Đá dạy ta với cánh diều thơ nhỏ
Biết kéo về cả một sắc trời xanh
Biết ơn mẹ vẫn tính cho con thêm một tuổi sinh thành
“Tuổi của mụ” con nằm tròn bụng mẹ
Để con quý yêu tháng ngày tuổi trẻ
Buổi mở mắt chào đời, phút nhắm mắt ra đi…
Biết ơn trò chơi tuổi nhỏ mê ly
“Chuyền chuyền một…” miệng, tay buông bắt
Ngôn ngữ lung linh, quả chuyền thoăn thoắt
Nên một đời tiếng Việt mãi ngân nga…
Biết ơn dấu chân bấm mặt đường xa
Những dấu chân trần, bùn nặng vết
Ta đi học quen dẫm vào không biết
Dáng cuộc đời in mãi dáng ta đi…
(Trích Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm, Nxb Văn nghệ Giải phóng, 1974)
Bài làm
Hàn Mặc Từ trong quá trình sáng tạo đã từng bộc bạch rằng: “Tôi làm thơ, nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ, tôi phản lại tất cả, những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật”. Đối với mỗi nhà thơ, sáng tác là quá trình bộc lộ tâm tưởng, phơi trải ra trang giấy những mong ước, suy tư thầm kín, thâm trầm, sâu lắng trong lòng mình. Đến với Nguyễn Khoa Điềm, ta bắt gặp ở ông một hồn thơ thấm đẫm triết lí, nặng nghĩa tình, luôn hướng về cội nguồn và quê hương. Bài thơ “Lời chào” là một trong những thi phẩm nổi bật của ông, thể hiện thái độ biết ơn và sự tự nhận thức về hành trình trưởng thành của con người.
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút hàng đầu của nền thi ca Việt Nam hiện đại. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén, thể hiện những trăn trở, ngẫm nghĩ về con người, quê hương, đất nước Việt Nam. “Lời chào” là một thi phẩm gắn với xứ Huế thân thương – quê hương yêu dấu của tác giả. Từ góc nhìn vời vợi nhớ thương với nơi mình sinh ra, Nguyễn Khoa Điềm đã bộc lộ niềm xao xuyến trước bước đi nhanh chóng của thời gian và những suy ngẫm về hành trình trưởng thành.
Khổ thơ đầu tiên đã khắc họa những suy nghĩ, băn khoăn, sự bất ngờ của nhân vật trữ tình trước sự chảy trôi của thời gian.“Ta” không khỏi ngỡ ngàng, bồi hồi khi nhận ra thời niên thiếu đã lặng lẽ trôi nhanh. Ngoảnh lại nhìn ngắm những năm tháng tuổi trẻ, nhân vật trữ tình không khỏi dấy lên cảm xúc xao xuyến khó tả:
“Ta lớn lên bối rối một sắc hồng
Phương cứ nở hoài hoà như đếm tuổi
Như chiều nay, một buổi chiều dữ dội
Ta nhận ra mình đang lớn khôn…”
Thời niên thiếu, “ta” đã từng “bối rối”, ngập ngừng, xao động trong lòng. Hình ảnh “một sắc hồng” ở đây không chỉ là sắc đỏ của hoa phượng mà còn là biểu tượng cho tuổi trẻ, cho những rung cảm đầu đời chớm nở trong tâm hồn tác giả. Hình ảnh hoa phượng nở đồng hiện với bước đi của thời gian, mỗi mùa hoa phượng trôi đi là “ta” nhiều thêm một tuổi, ngày càng lớn khôn và đến gần hơn với ngưỡng cửa trưởng thành. Khi thời gian thấm thoắt vụt nhanh, trong một khoảnh khắc chớp nhoáng ngắn ngủi, giữa “một buổi chiều”, nhân vật trữ tình chợt nhận ra tuổi thơ đã lùi xa tự lúc nào. Sự “dữ dội” ở đây không chỉ là sự thay đổi của cảnh vật mà còn là sự biến động bất ngờ trong tâm hồn. Đó là khoảnh khắc nhận thức đột ngột, khi “ta” bỗng nhận ra mình đã khác xưa, đã bước qua ranh giới của tuổi thơ để chinh phục hành trình mới. Cảm xúc ấy đến nhanh, mạnh, khiến lòng người chao đảo, vừa bối rối, vừa ngậm ngùi trước dòng chảy không thể vãn hồi của đời người.
Nếu khổ thơ trên là phút giây ngỡ ngàng khi nhân vật trữ tình nhận ra mình đã lớn khôn, thì sang khổ thơ tiếp theo, cảm xúc ấy dường như được nhân lên với nỗi bâng khuâng, xao xuyến khi hồi tưởng về những kí ức trong trẻo của tuổi thơ. Từ nhận thức ban đầu về sự trưởng thành, “ta” bắt đầu chiêm nghiệm sâu hơn về những điều những điều nhỏ bé, bình dị thuở nhỏ. Chính sự chuyển mình ấy đã mở ra mạch nguồn biết ơn, trân trọng đối với cuộc sống, với con người và với quê hương thân yêu:
“Biết ơn những cánh sẻ nâu đã bay đến cánh đồng
Rút những cọng rơm vàng về kết tổ
Đã dạy ta với cánh diều thơ nhỏ
Biết kéo về cả một sắc trời xanh”
Nhân vật trữ tình thể hiện sự biết ơn đối với “những cánh sẻ nâu”, những cánh diều thơ mộng. Thực chất, đó chính là sự biết ơn những kỉ niệm tuổi thơ giản dị mà đẹp đẽ đã gieo vào lòng “ta” những khoảnh khắc rung động đầu đời. Những hình ảnh thân thuộc bình dị của tuổi thơ cứ thế hiện về: đàn chim sẻ chăm chỉ bay khắp làng, dừng lại ở những đống rơm vàng sau mùa gặt, tỉ mỉ rút từng sợi rơm vàng óng để kết tổ; cánh diều chao lượn vun vút giữa trời cao. Song, điểm sáng ở đoạn thơ ở hình ảnh cánh diều. Hình ảnh “cánh diều thơ nhỏ” trước hết gợi về một trò chơi dân dã, quen thuộc của tuổi thơ nơi làng quê Việt Nam. “Cánh diều thơ nhỏ” mang vẻ hồn nhiên, trong trẻo, gắn liền với những buổi chiều gió lộng, với tiếng sáo diều ngân nga giữa khoảng trời xanh mênh mông. Cánh diều ấy không chỉ là niềm vui, là thú tiêu khiển của trẻ nhỏ, mà còn là biểu tượng của ước mơ và khát vọng cất cánh. Ở đó, tâm hồn con trẻ được thả bay cùng trời cao, rộng mở với thiên nhiên, với cuộc sống. Câu thơ “Biết kéo về cả một sắc trời xanh” vừa mang nghĩa tả thực, vừa chứa đựng tầng nghĩa biểu tượng sâu sắc. Cánh diều khi bay lên giữa trời như kéo cả bầu trời lại gần, như gom cả khoảng không mênh mông vào trong tầm mắt của đứa trẻ. Nhưng trên bình diện cảm xúc, hình ảnh ấy còn diễn tả quá trình tâm hồn “ta” lớn lên: từ trò chơi hồn nhiên, ta học được cách cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, biết rung động, biết mơ ước và biết khát khao vươn tới những chân trời cao rộng. Nguyễn Khoa Điềm đã tinh tế dùng hình ảnh quen thuộc để nói về hành trình trưởng thành của con người. Chính những trò chơi tưởng chừng giản dị ấy lại dạy con người bài học đầu tiên về ước mơ, về khát vọng trong cuộc sống.Chính những kỉ niệm ấu thơ trong trẻo, hồn nhiên và mơ mộng ấy đã trở thành mật ngọt, nuôi dưỡng cả hồn người.
Dòng cảm xúc vẫn chảy trôi, nhân vật trữ tình thể hiện sự yêu thương, hàm ơn sâu sắc khi nghĩ về mẹ của mình:
“Biết ơn mẹ vẫn tính cho con thêm một tuổi sinh thành
“Tuổi của mụ” con nằm tròn bụng mẹ
Để con quý yêu tháng ngày tuổi trẻ
Buổi mở mắt chào đời, phút nhắm mắt ra đi…”
Cách nói “tuổi của mụ” là một cách nói dân gian mộc mạc nhưng chan chứa tình cảm. Cụm từ ấy gợi nhớ về khoảng thời gian thiêng liêng khi con còn nằm trong bụng mẹ, khi sự sống của con đã bắt đầu được hình thành từ hơi thở, từ nhịp tim của mẹ. Nhờ chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau mà con mới thành hình, rồi sau này nhờ mẹ nuôi dưỡng, chỉ bảo, con mới thành nhân – thành người. Công ơn của mẹ trời bể không sao chứa hết! Hai câu thơ cuối thể hiện một triết lý sâu sắc về sự sống và cái chết, về vòng tuần hoàn của đời người. Chính nhờ mẹ, nhân vật trữ tình mới biết trân trọng từng giây phút tồn tại, mới cảm nhận được giá trị thiêng liêng của sự sống. Mẹ không chỉ cho con hình hài, mà còn gieo trong con tình yêu cuộc đời, ý thức về sự sống, để từ đó biết sống tử tế, biết yêu thương. Viết về mẹ với công ơn lớn lao và cao cả, nhà thơ không khỏi xúc động với sự hàm ơn và cảm hứng ngợi ca sâu sắc.
Từ sự biết ơn tình mẹ thiêng liêng, nhân vật trữ tình thể hiện sự biết ơn với những giá trị văn hóa dân gian đã nuôi dưỡng tâm hồn con người Việt:
Biết ơn trò chơi tuổi nhỏ mê ly
“Chuyền chuyền một…” miệng, tay buông bắt
Ngôn ngữ lung linh, quả chuyền thoăn thoắt
Nên một đời tiếng Việt mãi ngân nga…
Nhân vật trữ tình “biết ơn” những trò chơi dân gian thuở nhỏ, đặc biệt là trò “chuyền chuyền một”, một trò chơi dân dã nhưng chứa đựng tinh hoa văn hóa dân tộc. Trò chơi ấy gắn liền với tuổi thơ của biết bao thế hệ, với tiếng cười giòn tan, với nhịp điệu khéo léo của “miệng, tay, mắt” hoạt động rất linh hoạt, nhịp nhàng. Từ nét đẹp giản dị ấy, Nguyễn Khoa Điềm đã gửi gắm niềm tự hào sâu sắc về trí tuệ và tâm hồn Việt, về bản sắc văn hóa dân tộc được lưu giữ qua từng trò chơi, từng lời ca, tiếng hát. Câu thơ “Nên một đời tiếng Việt mãi ngân nga…” là một điểm nhấn đầy xúc động. “Tiếng Việt” ở đây không chỉ là ngôn ngữ giao tiếp, mà còn là linh hồn dân tộc, là dòng chảy văn hóa nuôi dưỡng tâm hồn mỗi con người Việt Nam từ thuở ấu thơ đến suốt cuộc đời. Tiếng Việt đã vang lên trong lời ru của mẹ, trong tiếng gọi của quê hương, trong những câu ca dao, trong trò chơi tuổi nhỏ, để rồi trở thành âm thanh ngân mãi trong tâm hồn mỗi người. Như vậy, đi từ nỗi hoài nhớ tuổi thơ đến tình yêu và lòng biết ơn với mẹ, và cuối cùng là niềm tự hào với tiếng Việt và văn hóa dân tộc, cảm xúc của nhân vật trữ tình ngày càng được mở rộng và thăng hoa. Từ điều tưởng chừng bình dị nhất như trò chơi tuổi nhỏ, nhà thơ đã khơi dậy tình yêu quê hương, đất nước. Phải chăng, chính tình yêu gia đình và làng quê thân thuộc là mảnh đất đầu tiên gieo mầm tình yêu Tổ quốc trong mỗi con người? Và cũng từ đó, ta hiểu rằng tình yêu nước không phải là điều gì xa xôi, lớn lao, mà bắt đầu từ những điều bình dị, thân thương nhất trong cuộc đời mỗi người.
Bốn câu thơ kết lại bài thơ vang lên như một nốt trầm sâu lắng, đong đầy suy tư và chiêm nghiệm:
“Biết ơn dấu chân bấm mặt đường xa
Những dấu chân trần, bùn nặng vết
Ta đi học quen dẫm vào không biết
Dáng cuộc đời in mãi dáng ta đi…”
Sau những ký ức tuổi thơ hồn nhiên, sau tình yêu tha thiết dành cho mẹ và cho quê hương, nhân vật trữ tình hướng lòng biết ơn đến những người lao động nhọc nhằn, gian khó. Hình ảnh “dấu chân bấm mặt đường xa”, “những dấu chân trần, bùn nặng vết” gợi lên hình ảnh những con người bình dị nơi làng quê Việt Nam, những người nông dân, người mẹ, người cha đã đi qua bao vất vả, nhọc nhằn để mở lối cho thế hệ sau. Những “dấu chân trần” ấy không chỉ in trên mặt đất mà còn in sâu vào ký ức, trở thành biểu tượng cho sức chịu đựng, đức tính hy sinh, chịu thương chịu khó, cần cù lao động của con người Việt Nam. Câu thơ “Ta đi học quen dẫm vào không biết” là một lời tự nhận đầy khiêm nhường và day dứt. Rằng, trong hành trình trưởng thành, có biết bao điều “ta” vô tình quên lãng. Cho đến khi dần lớn lên, “ta” mới thấu hiểu và biết ơn những điều tưởng chừng giản đơn ấy. Hai câu kết khép lại bài thơ bằng một chiêm nghiệm mang tính triết lý: Hành trình của mỗi con người là sự tiếp nối của những bước chân đi trước, trong dáng đi của ta hôm nay, có hình bóng của cha mẹ, của quê hương, của cả một dân tộc cần lao. Với hình ảnh thơ giản dị mà thấm thía, Nguyễn Khoa Điềm đã kết tinh toàn bộ mạch cảm xúc của bài thơ: từ nỗi hoài nhớ tuổi thơ đến lòng biết ơn mẹ, biết ơn quê hương, và cuối cùng là sự tri ân sâu sắc với những con người bình dị đã âm thầm dựng xây cuộc sống này.
“Lời chào” không đơn thuần là một lời tiễn biệt tuổi thơ đã qua đi của nhân vật trữ tình, mà thực chất chính là biểu hiện sâu sắc của lòng biết ơn và sự gắn bó với quê hương, đất nước. Nhân vật trữ tình, hay chính là tác giả đã bộc lộ sự hàm ơn sâu sắc với thế giới tuổi thơ, với gia đình, với nơi chôn nhau cắt rốn và với chính đất nước Việt Nam thân thương của mình.
Để chuyển tải nội dung, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng nhiều đặc sắc về mặt nghệ thuật. Nhà thơ không nói về tuổi thơ bằng những kỷ niệm xa xôi, trừu tượng mà bằng những hình ảnh rất đỗi bình dị, gần gũi: cành phượng, cánh sẻ nâu, cọng rơm vàng, cánh diều thơ, mẹ…. Đồng thời, ngôn ngữ thơ giản dị, sinh động, gợi cảm, gợi tả. Bài thơ mang giọng điệu tự bạch, tâm tình, như một lời thủ thỉ nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình với chính mình. Những câu thơ “Ta lớn lên…”, “Ta đi qua…”, “Ta nhận ra mình…” vang lên tha thiết, thể hiện quá trình tự nhận thức, tự chiêm nghiệm về sự trưởng thành. Bên cạnh đó, tác phẩm có nhịp thơ chậm rãi, nhẹ nhàng, sâu lắng cùng với sự thành công trong việc sử dụng các biện pháp so sánh (Phương cứ nở hoài hoà như đếm tuổi), điệp ngữ (biết ơn, ta,..), ẩn dụ (trời xanh), hoán dụ (dấu chân bấm mặt đường xa),…Chính những yếu tố đặc sắc về mặt nghệ thuật ấy đã góp phần tạo nên diện mạo riêng trong thơ Nguyễn Khoa Điềm.
“Lời chào” là khúc hát tri ân chan chứa nghĩa tình, là bản hòa ca của lòng biết ơn, của tình yêu quê hương, đất nước. Qua những hình ảnh bình dị và ngôn ngữ giàu sức gợi, Nguyễn Khoa Điềm không chỉ tái hiện hành trình trưởng thành của con người, mà còn khơi dậy trong mỗi chúng ta niềm trân quý những điều giản đơn, thân thuộc trong cuộc sống. Bài thơ là một “lời chào” đến tuổi thơ, nhưng cũng mở ra một hành trình mới – hành trình của nhận thức, của sự trưởng thành, của niềm tin và hy vọng. Tác phẩm đã giúp người đọc thêm yêu tuổi thơ, yêu mẹ, yêu quê hương, biết trân quý những cội nguồn nuôi dưỡng tâm hồn, để từ đó ta học cách sống biết ơn, sống đẹp hơn mỗi ngày trong cuộc đời này.
Tham khảo bài viết khác tại đây:
Phân tích nhân vật người bà và người cháu trong “Mùa giáp hạt”
Xem thêm:
- Lớp văn cô Ngọc Anh trực tiếp giảng dạy tại Hà Nội: Tìm hiểu thêm
- Tham khảo sách Chuyên đề Lí luận văn học phiên bản 2025: Tủ sách Thích Văn học
- Tham khảo bộ tài liệu độc quyền của Thích Văn học siêu hot: Tài liệu
- Đón xem các bài viết mới nhất trên fanpage FB: Thích Văn Học



