Muốn hiểu một tác phẩm tự sự, ta không thể không đi qua thế giới nhân vật. Bởi trong mỗi nhân vật, nhà văn đều gửi gắm cách nhìn, tư tưởng, quan niệm về con người và đời sống. Hiểu nhân vật là đối thoại với tư tưởng nghệ thuật của tác giả, là khám phá bản chất sâu xa của văn học – nơi con người được nhìn thấy bằng con mắt sáng tạo.
Phân tích nhân vật không chỉ để biết “họ là ai”, mà còn để hiểu “vì sao họ được viết ra như thế”. Trong phần 1 này, Trạm văn gửi đến bạn một số tri thức cơ bản về nhân vật trong tác phẩm tự sự, hi vọng sẽ giúp bạn mở ra hành trình hiểu sâu hơn thế giới con người trong văn học!
1. Nhân vật là ai?
– Nhân vật là con người cụ thể được khắc họa trong tác phẩm văn học bằng các biện pháp nghệ thuật.
– Cũng có những trường hợp nhân vật trong tác phẩm văn học là thần linh, loài vật, đồ vật,… nhưng khi ấy, chúng vẫn đại diện cho những tính cách, tâm lý, ý chí hay khát vọng của con người.
– Nhân vật là phương tiện để văn học khám phá và cắt nghĩa về con người.
2. Chức năng của nhân vật
– Chức năng miêu tả và khái quát các loại tính cách, số phận của con người trong đời sống xã hội.
Ví dụ:
- Nhân vật Hoạn Thư: khái quát cho bản tính ghen tuông của giới nữ
- Nhân vật Chí Phèo: khái quát cho bản tính lưu manh, côn đồ, kiểu số phận bất hạnh của người nông dân trước cách mạng tháng Tám bị tha hóa.
– Chức năng phản ánh xã hội, thời đại, lịch sử.
Ví dụ:
- Truyện của Tô Hoài: đời sống xã hội bản làng Tây Bắc
- Truyện của Nguyễn Trung Thành: đời sống xã hội bản làng Tây Nguyên
– Chức năng thể hiện tư tưởng tình cảm, quan niệm nghệ thuật của nhà văn với thế giới.
Ví dụ: Thông qua các nhân vật Thúy Kiều, Đạm Tiên,…, Nguyễn Du bộc lộ tư tưởng nhân đạo, tư tưởng nữ quyền, quan điểm “tài hoa bạc mệnh”, thuyết thiên mệnh,…
– Nhân vật là yếu tố tạo nên mối liên kết giữa các sự kiện trong tác phẩm.
3. Các yếu tố cần lưu ý khi phân tích nhân vật
– Lai lịch: Các thông tin về lai lịch sẽ cho biết nhân vật đến từ đâu, thuộc tầng lớp nào, hoàn cảnh sống ra sao,… Từ đó giúp người đọc hiểu được cơ sở hình thành tính cách, phẩm chất, hành động và số phận của nhân vật.
– Ngoại hình: Nhà văn miêu tả ngoại hình nhân vật thường với hai mục đích: (1) Để cá thể hóa nhân vật, không để nhân vật ấy lẫn với nhân vật khác. (2) Để gợi tả phần nào tính cách, bản chất của nhân vật.
– Ngôn ngữ: Có thể thể hiện nghề nghiệp, trình độ văn hóa, tính cách của nhân vật. Ngôn ngữ của một nhân vật văn học thành công thường mang đậm dấu ấn của cá nhân.
– Hành động: Bản chất của con người bộc lộ qua cử chỉ, hành động. Tuy nhiên, bản chất ấy không chỉ bộc lộ qua việc nhân vật ấy làm mà còn qua cách làm việc ấy của nhân vật nữa.
– Nội tâm: Khi phân tích nhân vật cần quan tâm đến thế giới bên trong với những cảm giác, cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ,… để thấy được chiều sâu tâm hồn của nhân vật đó.
– Lời các nhân vật khác về nhân vật: Để khắc họa tính cách, bản chất của một nhân vật, nhà văn còn mượn lời nói, đánh giá của các nhân vật khác để tăng tính khách quan.
4. Các loại hình nhân vật
Có nhiều tiêu chí để phân loại các loại hình nhân vật. Tiêu biểu gồm:
– Phân loại dựa trên vai trò trong tác phẩm
- Nhân vật chính: được xây dựng nhằm qua đó nhà văn thể hiện đề tài, chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Xuất hiện hầu hết trong các tình huống, đóng vai trò chủ chốt trong cốt truyện và thường tham dự các sự kiện chủ yếu trong tác phẩm đặc biệt là những xung đột cơ bản.
Ví dụ: Ông giáo, lão Hạc (Lão Hạc – Nam Cao); Chí Phèo, Thị Nở (Chí Phèo – Nam Cao); anh thanh niên, cô kỹ sư, bác họa sĩ (Lặng lẽ Sa Pa – Nguyễn Thành Long);…
- Nhân vật trung tâm: là nhân vật chính mang được chủ đề tư tưởng cơ bản của tác phẩm, không chỉ tham gia vào xung đột mà còn có vai trò kết nối tổ chức những xung đột, mâu thuẫn nhỏ thành xung đột cơ bản của tác phẩm.
Ví dụ: Chí Phèo (Chí Phèo – Nam Cao), Thúy Kiều (Truyện Kiều – Nguyễn Du), Phùng (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu),…
- Nhân vật phụ: là nhân vật thứ yếu trong tác phẩm, xuất hiện để bổ sung, so sánh đối chiếu nhằm làm rõ nhân vật chính và nhân vật trung tâm.
Ví dụ: Thúy Vân, Vương Quan (Truyện Kiều – Nguyễn Du); vợ ông giáo (Lão Hạc – Nam Cao);….
– Phân loại dựa trên lý tưởng thẩm mỹ: nhân vật chính diện, nhân vật phản diện
– Phân loại dựa trên cấu trúc của hình tượng nhân vật:
- Nhân vật mặt nạ: không có đời sống nội tâm; các phẩm chất, đặc điểm nhân vật cố định không thay đổi từ đầu đến cuối. Sự tồn tại và hoạt động của nó chỉ nhằm thực hiện một số chức năng nhất định. (VD: Nhân vật ông tiên, bà tiên, ông Bụt, phù thủy,…)
- Nhân vật loại hình: thể hiện tập trung các phẩm chất xã hội, đạo đức của một loại người nhất định trong xã hội nhằm khái quát chung về một loại tính cách. (VD: Nhân vật Ác-pa-gông (Lão hà tiện – Molie) là đại diện của thói keo kiệt)
- Nhân vật tính cách: được miêu tả như một cá nhân có cá tính nổi bật, trong đó tính cách của nhân vật có biến động, có đổi thay, có sự chuyển biến gắn với sự nhận thức con người về đời sống xã hội. (VD: Nhân vật Hộ (Đời thừa – Nam Cao) có sự xung đột giữa tính cách với hoàn cảnh sống, làm nhân vật luôn phải tự đấu tranh, giằng xé)
- Nhân vật tư tưởng: đại diện cho một tư tưởng, một ý thức hệ nào đó của tác giả. (VD: Nhân vật Độ (Đôi mắt – Nam Cao) thể hiện quan niệm về lối sống, cái nhìn, trách nhiệm của hai kiểu nhà văn)
6. Những lưu ý quan trọng
– Không phải bất cứ nhân vật nào cũng được nhà văn thể hiện đầy đủ các yếu tố ngoại hình, lai lịch, ngôn ngữ, nội tâm,… Nhà văn có thể lựa chọn chỉ tập trung vào một hoặc một vài khía cạnh tiêu biểu, đặc sắc nhất của nhân vật.
– Không nên xem tính cách, số phận nhân vật ngang hàng với các yếu tố lai lịch, ngoại hình, hành động,… bởi các yếu tố này chỉ là sự cụ thể hóa của tính cách, số phận nhân vật.
7. Một số nhận định về nhân vật trong tác phẩm tự sự
– Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác. (Tô Hoài)
– Các nhân vật trong tác phẩm nghệ thuật không phải đơn giản là những bản dập của những con người sống, mà là hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ, tư tưởng của tác giả. (Bertolt Brecht)
– Từ nguyên mẫu đến nhân vật, có sự tái tạo của nhà văn. Đây là một điều quan trọng. Trong tác giả, hình tượng nhân vật dần dà dậy lên một đời sống riêng, nó gồm những nét chủ yếu trong thực tế, cũng đồng thời lại óng ả lên những sắc thái mới, khiến cho đẹp đẽ hơn, thân thiết hơn. (Bùi Hiển)
– Nhân vật trong tác phẩm của một thiên tài thực sự nhiều khi thật hơn cả con người ngoài đời, bởi sức sống lâu bền, bởi ý nghĩa điển hình của nó. Qua nhân vật, ta thấy cả một tầng lớp, một giai cấp, một thời đại, thậm chí có nhân vật vượt lên cả thời đại, có ý nghĩa nhân loại, vĩnh cửu sống mãi với thời gian. (Sóng Hồng)
– Nhân vật là bản sao của đời sống nhưng không phải là bê nguyên xi trần trụi vào tác phẩm mà đã được nhà văn gọt giũa bằng lớp lớp ngôn từ nên khi vào tác phẩm nhân vật đã trở thành hình tượng nghệ thuật. (Leonit Leonop)
Tham khảo bài viết khác tại đây:
Lý luận văn học về nhan đề tác phẩm
Xem thêm:
- Lớp văn cô Ngọc Anh trực tiếp giảng dạy tại Hà Nội: Tìm hiểu thêm
- Tham khảo sách Chuyên đề Lí luận văn học phiên bản 2025: Tủ sách Thích Văn học
- Tham khảo bộ tài liệu độc quyền của Thích Văn học siêu hot: Tài liệu
- Đón xem các bài viết mới nhất trên fanpage FB: Thích Văn Học



