CHÂN DUNG TÁC GIẢ: Tản Đà người thi sĩ với cái tôi đớn đau của buổi giao thời (phần 1)

Tan Da nguoi thi si voi cai toi dau don cua buoi giao thoi

Trong khoảng một thập kỷ tính từ những năm 1920 thì trên thi đàn văn học Việt Nam, không có nhà thơ nào nhận được nhiều sự yêu mến như Tản Đà. Ngay cả khi phong trào thơ mới trở nên phổ biến, cái tên Tản Đà không còn nổi bật như trước thì cũng không ai có thể phủ nhận những đóng góp to lớn của ông cho nền văn chương nước nhà.

Cuộc đời và sự nghiệp đầy thăng trầm của Tản Đà

Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, ông sinh năm 1889 tại Sơn Tây, Hà Nội và mất năm 1939, khi tác giả mới năm mươi tuổi. Nhà thơ tạo nên bút danh của mình bằng cách ghép tên của ngọn núi Tản Viên cùng con sông Đà nổi tiếng ở quê hương ông.

Tản Đà dành phần lớn cuộc đời cho nghề cầm bút và ghi dấu tên tuổi của mình ở nhiều lĩnh vực khác nhau như thơ ca, văn xuôi, nhạc kịch cũng như báo chí. Dù cho ở thời kỳ đỉnh cao của sự nghiệp hay khi dần lùi vào quá khứ thì ông vẫn nhận được vô vàn sự kính trọng của thế hệ sau này.

Đôi nét về cuộc đời của Tản Đà

Tản Đà sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa bảng bởi thế ông được tiếp cận với tri thức từ lúc còn nhỏ. Tác giả học Tam tư kinh, Ấu học ngũ ngôn thi, Dương tiết khi mới năm tuổi, một năm sau thì ông biết luận ngữ, kinh, truyện và chữ quốc ngữ.

Tản Đà thể hiện khả năng thiên phú của mình với văn chương khi ông có thể làm thơ, viết câu đối vào thời điểm bản thân mới chỉ mười tuổi. Khắp vùng Sơn Tây xôn xao về người thi sĩ này và người dân nơi đây coi ông là một thần đồng.

Tiếp nối truyền thống thi cử của gia đình, Tản Đà cũng từng ôn luyện và tham gia các cuộc thi, tuy nhiên hai lần ông đều không đỗ đạt. Với tính tình ngạo nghễ, nhà thơ không cho rằng mình trượt vì bản thân không có tài, trong một cuốn tự truyện ông giải thích:

“Bởi ông hay quá, ông không đỗ
Không đỗ ông càng tốt bộ ngông.”

Tự trào

Sau nhiều lần không thành danh trên con đường khoa bảng, Tản Đà chuyển hẳn sang nghề viết lách và kiếm kế sinh nhai từ chữ nghĩa của bản thân. Năm 1915, những bài tản văn đầu tiên của ông được đăng lên Đông dương tạp chí, đánh dấu cột mốc ban đầu trong sự nghiệp cầm bút của tác giả.

Những năm từ 1915 đến 1926 có thể coi là giai đoạn vinh quang nhất trong cuộc đời Tản Đà, khi mà cả sự nghiệp sáng tác thơ văn cũng như viết báo của ông đều đạt đến đỉnh cao.

Tuy nhiên thời điểm Thơ mới bùng nổ và phát triển mạnh mẽ, những tác phẩm của ông thất thế giữa thời cuộc thì đời sống nhà thơ gặp nhiều khó khăn. Ngày tháng gian nan ấy, Tản Đà đã có lần phải mượn ngòi bút để chút đi nỗi sầu.

“Mỗi một phen ra đời lại một phen thất bại, mỗi một phen thất bại, đầu tóc lại bạc thêm”

Giấc mộng lớn

Tính cách của Tản Đà được kể lại qua ánh mặt của những người cùng thời, hầu hết bạn bè của nhà thơ đều cho rằng ông rất ngông nghênh, khó gần. Tản Đà trong văn chương và trong đời sống không có mấy khác biệt, khi tác giả mang hầu như cá tính của mình vào mỗi trang viết.

Trong cuộc đời Tản Đà, Ngô Tất Tố là người bạn thân thiết nhất với ông, người đã cùng tác giả gây dựng nên An Nam tạp chí lại cùng ông vào Nam để tiếp tục sự nghiệp. Thế nhưng người bạn này đã tuyệt giao với nhà thơ trong mười năm cuối cuộc đời. Ngô Tất Tố trách móc Tản Đà rằng:

“Cái tội nặng nhất của Tản Đà là không biết sửa sai, không biết nghe lời anh em khuyên bảo. Cái số anh em thành thực khuyên ông rất hiếm, còn cái số nâng ông lên, sợ cái tài ông mà không dám làm mích lòng ông thì cả đống. Vì có nhiều kẻ nịnh ông một cách mù quáng như thế, ông bị hại mà không biết, mỗi ngày mỗi tự phụ thêm lên.”

Đến những năm cuối của cuộc đời, Tản Đà vẫn sống lay lắt từng ngày nhờ vào nghề viết lách và ông tạ thế để lại vợ con trong cảnh túng quẫn, nghèo khổ. Cuộc đời người nghệ sĩ trải qua biết bao thăng trầm, với một cái tôi ngông nghênh cùng tâm lòng tận tụy với văn chương, tên tuổi ông đã ghi dấu sâu sắc trong lòng hậu thế sau này.

Sự nghiệp cầm bút nhiều biến động

Tản Đà là một trong những người đầu tiên coi văn chương là một nghề nghiệp, ông không chỉ xem làm thơ viết văn như một niềm vui mà còn sử dụng chữ nghĩa của mình kiếm kế sinh nhai. Tác giả gần như gắn cả cuộc đời với nghiệp viết lách, điều đó được minh chứng qua vô số ấn phẩm trên báo cùng những sáng tác được xuất bản thành sách.

Sau khi tác phẩm đầu tiên của ông được đăng trên Đông dương tạp chí, nó ngay lập tức gây được tiếng vang, lớn đến mức tờ tạp chí này phải tạo riêng một mục mang tên Tản Đà văn tập cho sáng tác của ông.
Cũng trong năm 1915, tập thơ Khối tình con I của tác giả được xuất bản, biến cái tên Tản Đà trở thành một hiện tượng trên văn đàn lúc bấy giờ. Sau thành công vang dội này, ông cho ra mắt liên tiếp các tác phẩm vào những năm sau đó như Giấc mộng con I, Khối tình con II, Đài gương, Đàn bà Tầu, Thần tiền, Lên sáu, Lên tám, Còn chơi cùng một số sáng tác khác.

Tờ Nam phong tạp chí mặc dù hết lời khen tập thơ Khối tình con I của tác giả nhưng đến khi Giấc mộng con I được xuất bản họ lại chê bai cay nghiệt. Sự kiện này gây ra làn sóng dư luận mạnh mẽ khiến cái tên Tản Đà càng nhận được nhiều sự chú ý.

Tản Đà rất nghiêm túc đối với nghề viết báo của mình, bên cạnh việc viết bài cho các tờ báo thì ông cùng Ngô Tất Tố dành rất nhiều tâm huyết để gây dựng An Nam tạp chí vào năm 1926. Mặc cho nỗ lực của tác giả, An Nam tạp chí bị đình bản vĩnh viễn do thiếu hụt tài chính khi mới chỉ xuất bản được 48 số.
Có thể coi thơ là lĩnh vực quan trọng nhất trong sự nghiệp cầm bút của Tản Đà. Những sáng tác của ông đa dạng về chủ đề, phong phú về thể loại. Nhìn chung sáng tác của nhà thơ, mang nét đặc trưng phóng khoáng, ngông nghênh nhưng cũng không kém phần hào hoa, lãng mạn. Xuân Diệu từng ca ngợi vần thơ của Tản Đà rằng:

“Chính cái sầu trong thơ Tản Đà là đầu mối quỷ thuật chính yếu để dụ người ta.”

Nhiều người đánh giá, sáng tác của Tản Đà là dấu gạch nối giữa văn học trung đại và hiện đại, điều này là bởi ông sinh ra khi đất nước đang trong buổi chuyển giao. Văn chương của Tản Đà vẫn mang những nét cổ điển của Nho giáo thế nhưng nhà thơ cũng học hỏi cái mới, khiến tác phẩm của ông vượt ra khuôn mẫu cả về nội dung lẫn hình thức.

Trong những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước diễn ra mạnh mẽ và bản thân nhà thơ cũng chịu ít nhiều ảnh hưởng bởi tinh thần này. Bài thơ Thề non nước là sáng tác tiêu biểu nhất cho tư tưởng yêu nước của Tản Đà.

“Nước non nặng một nhời thề
Nước đi đi mãi không về cùng non
Nhớ nhời nguyện nước thề non
Nước đi chưa lại non còn đứng không”

Thề non nước

Thời kỳ đỉnh cao trong sự nghiệp Tản Đà trôi qua, những năm 1930 khi phong trào Thơ mới chiếm ưu thế trên mọi diễn đàn thì những tác phẩm của ông mất chỗ đứng trên văn đàn lúc bấy giờ. Thậm chí tờ báo của Tự lực văn đoàn còn chê bai thi sĩ bằng lời lẽ mạt sát, tệ bạc.

Những năm cuối đời, Tản Đà sống im lặng trong sự nghèo túng và dành chút sức lực còn lại để dịch thuật các tác phẩm như Liêu Trai chí dị , Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện, Thời hiền thi tập.

Tưởng rằng cái tên lừng danh một thời đã mãi lui về một thời quá vãng nhưng sau này tên tuổi của ông được hồi sinh. Những nhà thơ mới ca ngợi đóng góp của Tản Đà cho nền văn chương nước nhà, thậm chí khi tác giả qua đời một loạt tên tuổi đã chắp bút những tác phẩm về ông như Tản Đà một kiếm khách của Nguyễn Tuân hay Lưu Trọng Lư với Khi nắp quan tài đậy.

Tản Đà cả đời cống hiến cho con chữ, dù cho trải qua nhiều thăng trầm, có khi ông bị lu mờ bởi những cái tên mới nhưng đến cuối cùng nhờ tài năng và tâm huyết của mình, ông đã một lần nữa khẳng định vị thế của bản thân trong dòng chảy miên viễn của văn học Việt Nam.


Hình ảnh: Nhất Linh
Nội dung: Ngọc Linh – Revelogue

Xem thêm:

CHÂN DUNG TÁC GIẢ: TẢN ĐÀ (phần2)

Xem thêm các bài viết được chia sẻ bởi độc giả của Thích Văn Học tại chuyên mục: https://thichvanhoc.com.vn/tai-lieu/tac-gia/

Đón xem các bài viết mới nhất trên fanpage FB Thích Văn Học