Cách viết đoạn văn phân tích một khía cạnh của văn bản truyện

Cach viet doan phan tich mot khia canh cua truyen

Đối với phần Nghị luận văn học về một văn bản truyện, các bạn học sinh sẽ gặp nhiều dạng đề yêu cầu đi sâu vào cảm nhận một khía cạnh nhất định của văn bản. Để đạt được số điểm cao, các bạn cần có khả năng bám sát khía cạnh cần phân tích, chọn lọc các chi tiết, hình ảnh phù hợp để tránh lạc đề, lan man. 

Thích Văn học gửi đến bạn dàn ý cho các dạng bài phân tích, cảm nhận một khía cạnh của văn bản truyện. Cùng tham khảo để ứng dụng trong quá trình làm bài nhé!

1. Dạng 1 – Phân tích khía cạnh của nhân vật (vẻ đẹp tâm hồn, diễn biến tâm lí,…)

– Mở đoạn:

  • Dẫn dắt, nêu tên tác giả – tác phẩm
  • Giới thiệu vấn đề nghị luận: cảm nhận chung về khía cạnh cần phân tích

– Thân đoạn:

  • Khái quát nhân vật: hoàn cảnh, xuất thân, nghề nghiệp,…
  • Phân tích khía cạnh của nhân vật: 
    • Gọi tên được những điểm đáng chú ý của khía cạnh (có những phẩm chất nào? Có những trạng thái nào trong diễn biến tâm lí?….)
    • Dựa vào các yếu tố sau để đưa ra cảm nhận về khía cạnh ấy: suy nghĩ; lời nói; hành động; mối quan hệ với nhân vật khác;… của nhân vật. 
  • Đánh giá:
    • Nhân vật là đại diện/ biểu tượng cho thế hệ/ lớp người nào?
    • Qua nhân vật, tác giả thể hiện chủ đề, nội dung truyện như thế nào?
    • Đánh giá đặc sắc nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nghệ thuật miêu tả nhân vật (qua ngoại hình, tâm lí,…); ngôn ngữ (đối thoại, độc thoại,…);…

– Kết bài:

  • Khẳng định lại vai trò của nhân vật đối với truyện
  • Đưa ra bài học, thông điệp gửi gắm từ nhân vật

2. Dạng 2 – Phân tích khía cạnh của nghệ thuật trong văn bản (nghệ thuật kể chuyện, điểm nhìn, ngôi kể,…)

– Mở đoạn:

  • Dẫn dắt, nêu tên tác giả – tác phẩm
  • Giới thiệu vấn đề nghị luận: cảm nhận chung về khía cạnh cần phân tích

– Thân đoạn:

  • Khái quát, tóm tắt truyện (từ 1 – 2 câu)
  • Phân tích khía cạnh nghệ thuật:
    • Trả lời câu hỏi “Là gì?”,  “Như thế nào?” với khía cạnh cần phân tích

Ví dụ: 

– Điểm nhìn trần thuật: Là điểm nhìn gì? Được thể hiện như thế nào?

– Ngôi kể: ngôi thứ mấy? Đặt ở nhân vật nào? Từ ngôi kể, truyện được kể như thế nào? 

    • Nêu vai trò của khía cạnh nghệ thuật:
      • Góp phần thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm
      • Thể hiện được tính cách, vẻ đẹp,… của nhân vật
      • Thể hiện thái độ/ tình cảm, tài năng của tác giả

– Kết bài: Khẳng định lại vai trò của khía cạnh đó đối với truyện.

 3. Lưu ý khi phân tích, cảm nhận một khía cạnh của văn bản truyện

– Bám sát khía cạnh cần phân tích trong quá trình tìm dẫn chứng trong văn bản. 

  • Nên chọn những chi tiết, hình ảnh mang tính bước ngoặt, tập trung thể hiện rõ nhất khía cạnh đang phân tích, tránh liệt kê dàn trải. 

VD: Khi phân tích vẻ đẹp tâm hồn nhân vật, chỉ chọn những dẫn chứng về: suy nghĩ, lời nói, hành động,… của nhân vật đó. Hạn chế đưa vào những chi tiết thiếu liên quan (về nhân vật khác; về thiên nhiên;…)

– Phân tích song hành nội dung – nghệ thuật:

  • Khi phân tích khía cạnh nội dung, cần chỉ ra cách thức mà tác giả sử dụng để thể hiện điều đó.
  • Khi phân tích khía cạnh về nghệ thuật, cần chỉ ra tác dụng của nó trong việc thể hiện nội dung. 

4. Ví dụ minh họa

Đề bài: Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích sự thay đổi trong cảm nhận về quê hương của nhân vật “anh” trước và sau khi mẹ qua đời trong đoạn trích “Chỗ nào cũng nắng” của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. 

CHỖ NÀO CŨNG NẮNG

                                             (Nguyễn Ngọc Tư)

Quá cái tuổi háo hức những món quà miệt vườn trong giỏ xách mẹ, mỗi bận bà lên thăm anh hóng thứ khác: những câu chuyện của quê nhà. 

Năm tiếng đồng hồ ngồi xe đò không ăn nhằm gì với bà già quen làm lụng, nên vừa bước chân vào nhà anh ngay lập tức chuyện giòn như cốm nổ. Không lúc nào chịu ngồi yên một chỗ, trong lúc xăng xái dọn chỗ này dẹp chỗ kia, vừa làm vừa kể, những chuyện nhà quê theo bước chân mẹ dìu dặt nửa xa nửa gần…

Mà, những câu chuyện ấy cũng đâu có giựt gân, kịch tính gì. Lơ vơ, quẩn quanh chỉ là cái góc bếp bị dột, cô bạn bên xóm vừa làm sui đầu tay, con lộ bê tông mới toanh phóng qua trước nhà. Sực nhớ gì thì nói đó, mẹ cứ láp giáp rời rạc, như thể chắp vá nhưng cái quê nhà mà anh đã rời bỏ hồi mười tám tuổi hiện lên sống động như bộ phim ai ải màu rơm rạ mục. Không phải cái tên nào anh cũng biết, nhưng anh cảm giác họ quen thuộc với mình, cái cô dâu phóng khỏi chiếc xuồng để quay lại với gã thợ rèn mà cổ yêu, hay bà thầy bói lấy búi tóc trong bụng con bệnh bằng máu lưỡi. Mẹ cũng không màng anh có quen người này người kia hay không, có gợi nhớ gì không. Quan trọng gì, mẹ sẽ ở lại nhà anh vài ba ngày rồi phải về coi vườn tược, thời gian mẹ con gần gũi cũng ngắn ngủn, nên phải tận dụng những thứ có thể nói được với nhau.

Bằng cách đó mẹ buộc anh vào quê nhà, dù sợi dây đó không thấy được bằng mắt thường, mong manh. Đôi khi anh cũng vuột khỏi nó, trôi tuột theo vài cuộc điện thoại thẳng căng của cuộc mưu sinh bù đầu. […] Như thể mỗi chuyện là một cọng nan tre, mẹ tiện tay đan thành tấm liếp che nắng, gió cho anh đỡ rạc rài.

Nhưng đó là chuyện hồi trước, giờ chuyện quê nhập nhoạng trong cơn đảo điên của đời sống. Anh tự hỏi vì giọng chị Hai không giống mẹ, hay vì những câu chuyện khác xưa rồi. Chang chói. Bén nhọn. Chị Hai còn biết kể gì ngoài những độ nhậu nhóm lên từ sáng sớm. Ba mẹ con bên xóm tự vẫn chết bằng thuốc sâu. Gần nhà xảy ra mấy vụ đâm xe máy. Một thằng nhỏ trộm chó bị xóm xông vào đánh gãy xương vai. Một cuộc ẩu đả của mấy anh em con cô con dì, chỉ vì ranh đất xê xích có một tấc. Anh nghĩ đó không phải thứ mình chờ đợi, những gì xảy ra ở xứ sở miệt vườn xa xôi kia phải dịu dàng hơn thứ tin tức anh vẫn thường tiếp xúc trên trang báo hàng ngày. Anh nghĩ cái xóm mà mẹ anh nằm lại, nó phải đứng ngoài những cơn gió lốc của cái đời sống loạn lạc này. Như nó đã từng thờ ơ đi qua mấy bận binh lửa, mấy bận chính thể đất nước đổi thay, mấy bận thanh trừng. Mãi mãi trong hình dung, quê anh như cụm bông gòn vừa bong ra khỏi trái, bay bâng quơ ơ thờ đậu đâu cũng được.

Dàn ý cho Thân đoạn

– Cảm nhận về quê hương của nhân vật “anh” khi mẹ còn sống:

  • Đối với “anh”, quê hương hiện lên với những câu chuyện bình dị, thân thuộc qua lời kể của mẹ. Đôi khi chỉ là những gì đơn giản, “lơ vơ” như “cái góc bếp bị dột, cô bạn bên xóm vừa làm sui đầu tay, con lộ bê tông mới toanh phóng qua trước nhà”. 
  • Tất cả những điều này khiến “anh” luôn cảm thấy mọi thứ thật “quen thuộc”, gợi cho “anh” rất nhiều dư vị của làng quê thân thương dù có đang ở nơi xa. 
  • Những mẩu chuyện nhỏ của mẹ trở thành sợi dây vô hình “buộc” tâm hồn “anh” với quê nhà. 

→ Khi ấy, quê hương chính là điểm tựa, là chỗ dựa che chở anh khỏi cuộc sống thành thị xô bồ. 

– Cảm nhận về quê hương khi mẹ qua đời:

  • Quê hương hiện lên qua những lời kể của chị Hai nhưng với những đổi thay tiêu cực, khiến “anh” cảm thấy chúng “chang chói”, “bén nhọn”. Đó là những độ nhậu, những vụ đâm xe máy,…
  • Cuộc sống của quê hương hiện tại không còn là sự bình yên, an toàn và quen thuộc như khi có mẹ. 

→ “Anh” hiểu rằng khi mẹ qua đời, ấy cũng là lúc những điều đẹp đẽ bình dị đã không còn để tưới mát tâm hồn “anh”.

  • Dù vậy, “anh” vẫn luôn giữ trong mình hình ảnh về một quê hương bình yên như “cụm bông gòn… bâng quơ ơ thờ.”

Tham khảo bài viết khác tại đây:

“Tây Tiến” – Về một thời “đi chẳng tiếc đời xanh”

So sánh, đánh giá hai bài thơ “Đất Nước” và “Việt Bắc”

Xem thêm: