“Tây Tiến” – Về một thời “đi chẳng tiếc đời xanh”

Tay Tien - Ve mot thoi di chang tiec doi xanh

“Tây Tiến” là một tác phẩm thơ tiêu biểu về đề tài người lính mà các bạn học sinh sẽ được học tại chương trình Ngữ văn lớp 12. Qua ngòi bút của nhà thơ Quang Dũng, bài thơ đã khắc họa một cách trọn vẹn bức tượng đài bất tử về người lính trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. 

Thích Văn học gửi đến bạn bài văn tham khảo về hình tượng người lính trong bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng. Bài viết đi sâu vào phân tích, làm nổi bật ba phương diện trong vẻ đẹp của người lính: vẻ đẹp lạc quan, kiên cường; vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa; vẻ đẹp bi tráng. Cùng đọc và tham khảo để tích lũy, có thêm cho mình những góc nhìn và kiến thức về tác phẩm nhé!

Bài làm

Nhận định về thơ ca, nhà thơ Sóng Hồng từng nói: “Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp”. Thơ ca từ lâu đã trở thành tiếng nói bất tận về trường đời rộng rãi, là lời gọi mời người đọc thấu hiểu sâu hơn về con người trong dòng chảy của thời đại qua từng câu chữ. Thơ ca chữ nghĩa không phải lời nói suông, càng không phải sự miêu tả về những gì xa xăm, mơ hồ. Muốn bài thơ của mình để lại những dấu ấn lâu bền trong tâm trí người đọc, hình ảnh con người và cuộc sống phải được nhà thơ chưng cất, gạn lọc từ mảnh đất màu mỡ của hiện thực. Là bài thơ được “rút ra từ tháng ngày bom đạn” (Nguyễn Đức Mậu), thi phẩm “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng đã khắc họa một cách chân thực hình tượng người lính Tây Tiến với nét vẽ đậm chất bi tráng: vừa kiên cường, bất khuất, vừa mang vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn.

“Nhà thơ Quang Dũng độc đáo một cách hồn nhiên, ông cứ sống tự nhiên như chim trên trời, cá dưới nước mà thành độc đáo.” – nhà thơ Vân Long đã dành những lời ấy để nói về tiếng thơ của Quang Dũng. Đối với “thi sĩ xứ Đoài mây trắng”, chính sự phóng khoáng, hồn hậu và tài hoa đã làm nên một phong cách riêng, để thơ ông “tự nhiên” mà khắc sâu trong lòng độc giả. Người đọc nhớ tới Quang Dũng qua các bài thơ nổi tiếng như “Đôi mắt người Sơn Tây”, “Đôi bờ”… và để lại nhiều ấn tượng nhất với “Tây Tiến”. Bài thơ được sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào năm 1948 khi Quang Dũng chuyển đơn vị, tạm biệt đoàn quân Tây Tiến mà ông đã từng gắn bó. 

Tây Tiến – đơn vị cũ của Quang Dũng, là một đội quân được thành lập vào năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào. Đơn vị đa số là những người lính trẻ vốn xuất thân là học sinh, sinh viên, lên đường tham gia kháng chiến với tinh thần anh dũng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Đặt nhan đề “Tây Tiến” – chỉ hai chữ thôi – nhưng Quang Dũng đã làm sống dậy cả một khúc quân hành đầy hào hùng của đoàn quân năm xưa, tái hiện những năm tháng chiến đấu gian khổ và đặc biệt là lời thổ lộ nỗi nhớ da diết về người lính Tây Tiến. 

Và có lẽ, cũng giống như Tố Hữu: “Mỗi khi có gì chất chứa trong lòng, không nói ra, không chịu được thì lại lấy làm thơ” mà Quang Dũng đã cất lên một tiếng lòng, một lời gọi đầy tha thiết. Để từ đây, những hồi ức về hình ảnh người lính dẫu gian khổ nhưng vẫn lạc quan, kiên cường được hiện lên rõ nét: 

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Dòng sông Mã đã trở thành một cái cớ, một mạch nguồn để nỗi nhớ về Tây Tiến được khơi dậy, để dòng chảy của kí ức lại được dịp xuôi ngược về tháng ngày cùng kề vai chiến đấu của những người lính trẻ. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi!” đầy chân thành, thiết tha cho thấy “Tây Tiến” dường như đã trở thành một người bạn “tri âm tri kỉ”, thành một phần máu thịt – nơi nhà thơ giãi bày tâm sự về những năm tháng đã qua. Nỗi nhớ mãnh liệt, cháy bỏng của Quang Dũng được gói gọn trong hai chữ “chơi vơi”. Dùng một từ thanh bằng để kết thúc câu thơ, Quang Dũng diễn tả niềm thương, nỗi nhớ luôn mênh mang, đau đáu, không lúc nào tan biến trong tâm tưởng nhà thơ. Làn sương bảng lảng của nỗi nhớ ấy dẫn nhà thơ trở về với cuộc hành quân giữa núi rừng Tây Bắc đầy hùng vĩ:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Quang Dũng tái hiện khung cảnh sương dày làm giảm đi tầm nhìn của người lính, vùi lấp đường đi và cả đoàn quân trong làn sương mịt mờ. Con người dường như cũng trở nên hết sức bé nhỏ giữa biển sương dày đặc. Thế nhưng, đoàn quân sức tuy “mỏi” nhưng tinh thần, ý chí quyết tâm thì vẫn luôn rực cháy. Hình ảnh những chàng lính trẻ trở nên kiên cường, mạnh mẽ hơn trong mỗi bước chân hành quân. Nhà thơ không ngần ngại khắc khắc họa khung cảnh núi rừng đầy rộng lớn, nguy hiểm:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời”

Ở đó, thiên nhiên hùng vĩ đến đâu, vẻ đẹp của tinh thần quả cảm, ngang tàng của những người lính được khắc họa đậm nét tới đó. Với hai từ “khúc khuỷu” và “thăm thẳm”, câu thơ mở ra hình ảnh những vách núi đầy quanh co, gập ghềnh: dốc lên cao trúc trắc và chông chênh tới đâu, dốc đi xuống cũng khiến người ta phải sợ hãi vị độ sâu hun hút tới đấy. Những đỉnh núi ở nơi đây cao và hùng vĩ tới mức chạm vào những cồn mây trắng và trên đường hành quân và chân dung người lính hiện lên đầy hiên ngang với hình ảnh “súng ngửi trời”. Súng là công cụ chiến đấu, là “tài sản của nhân dân”, là biểu tượng của tinh thần chiến đấu ngoan cường, dũng cảm. Trong câu thơ này, hình ảnh “súng ngửi trời” càng tô đậm dáng vẻ hiên ngang, kiêu hùng của những người lính. Cây súng hướng về phía bầu trời cao rộng, có chăng ngầm khẳng định người lính luôn có ý chí kiên cường, lí tưởng chiến đấu cao cả dẫn đường để tiến về phía trước? Và có lẽ chính lý tưởng cao đẹp ấy đã tiếp cho những người chiến sĩ tinh thần lạc quan, kiên cường dẫu cuộc sống chiến đấu cũng vô cùng khó khăn, khắc nghiệt:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Đâu còn dáng vẻ thư sinh của những chàng trai Hà Thành khi những người lính giờ đây tiều tụy, mái tóc cứ thế rụng dần bởi những cơn sốt rét nơi rừng thiêng nước độc. Câu thơ “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” vừa mang nghĩa tả thực vừa mang nghĩa ẩn dụ. Màu xanh ấy không chỉ là màu lá ngụy trang mà còn là màu da đã nhợt nhạt bởi trải qua những cơn sốt rét “thập tử nhất sinh”. Nhà thơ Tố Hữu trong bài thơ “Lên Cấm Sơn” cũng từng khắc họa “màu xanh” đặc biệt ấy của những người chiến sĩ giữa những năm tháng gian nguy:

“Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật

Đâu còn tươi nữa những ngày hoa.”

Thế nhưng, chính cách nói “không mọc tóc” hay cách miêu tả “dữ oai hùm” trong câu thơ của Quang Dũng đã khiến hình ảnh người lính hiện lên với tâm thế hiên ngang, tươi trẻ, đầy khí thế. Người lính mang trong mình khí thế “oai hùm” của một chúa tể rừng xanh – dù “xanh xao” nhưng không hề yếu đuối mà vẫn đầy vẻ ngang tàng, quả cảm trước khó khăn. Những gian khổ, vất vả trong quá trình chiến đấu có hề gì bởi người lính luôn mang trên vai tình yêu nước; bước chân hành quân vẫn luôn có tinh thần quả cảm đi cùng.

Nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp có lí khi khẳng định: “Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn “Tây Tiến” cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích của nó”. Ngòi bút của nhà thơ Quang Dũng đã thực sự đã vẽ nên một bức tranh “toàn bích” khi tô điểm thêm sự thi vị, bay bổng cho hình tượng người lính. Dẫu cuộc sống chiến đấu có gian khổ, những người lính vẫn mang một tâm hồn lãng mạn, hào hoa. Vì thế mà những nét đẹp, khung cảnh bình dị nơi núi rừng Việt Bắc cũng chưa từng bị lãng quên bởi có sự quan sát đầy tinh tế của những tâm hồn trẻ: 

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Người lính đã quen với mùi khói lửa bom đạn, cũng không thể thôi nhung nhớ những ngày “cơm lên khói”, những mùa “thơm nếp xôi”. Tràn ngập trong hai câu thơ là tình quân dân đầy ấm áp mà ở đó, mỗi nồi xôi nếp đều chứa đựng hương vị của núi rừng miền Tây; tình cảm chân thành, giản dị của nhân dân dành cho những chiến sĩ cách mạng. Cách nói “mùa em” đầy độc đáo và sáng tạo mà ở đó, chất chứa biết bao ý tình sâu xa của người lính. Trong dòng hoài niệm, tác giả làm sao quên được đêm liên hoan lửa trại trong khung cảnh đầy thơ mộng của núi rừng:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Qua con mắt lãng mạn của những chàng lính Tây Tiến trẻ trung, khung cảnh trở nên vừa thực vừa hư ảo. Có chăng là vì đêm tối bỗng trở nên bừng sáng bởi ánh lửa bập bùng của ngọn đuốc; trở nên lộng lẫy bởi dáng điệu “e ấp” của những cô gái vùng sơn cước? Cách gọi “em” lại một lần nữa xuất hiện, đi cùng câu hỏi tu từ “tự bao giờ” để diễn tả sự ngạc nhiên đầy đáng yêu của những người lính. Bởi lẽ, nơi đây không chỉ có nồi xôi nếp với sự ấm áp mà còn mang đến những đêm hội với không khí mê say, nơi tình quân dân gần gũi như tình cảm gia đình. Hơn cả, vẻ đẹp hào hoa của những người lính trẻ còn được hiện diện nơi những khát vọng, mơ ước đặc biệt: 

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Đôi “mắt trừng” hướng tới những giấc mộng là ánh nhìn đầy hi vọng về ngày độc lập của dân tộc hay có chăng, còn là sự đau đáu, trằn trọc hằng đêm hướng về quê nhà thân yêu? Những chàng trai Hà Thành khi lên đường chiến đấu đã gác lại những tình cảm riêng tư để đi theo tiếng gọi Tổ Quốc, hướng tới lí tưởng cao cả. Đã từng có một thời, Quang Dũng bị cho là một tiếng thơ “lạc điệu” khi viết những câu thơ “mộng rớt” tiểu tư sản. Thế nhưng, nhà thơ thực sự đã thấu hiểu những nỗi niềm thầm kín mà người lính chỉ dám nghĩ trong những “đêm mơ”.  Ta cũng bắt gặp những tâm hồn trẻ trung, lãng mạn như thế trong bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên:

“- Đằng nớ vợ chưa?

– Đằng nớ?

– Tớ còn chờ Độc lập

Cả lũ cười vang bên ruộng bắp,

Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu.”

Hình bóng của người thương vẫn luôn hiện diện trong trái tim chưa từng bị chai sạn bởi khói lửa bom đạn của người lính. Đó cũng là động lực tinh thần giúp họ có thêm sức mạnh để vững vàng trên chặng đường chiến đấu. 

Đặc biệt, những người lính trong “Tây Tiến” dẫu phải vượt qua biết bao nhiêu gian khổ, phải đối diện với sự mất mát vẫn ánh lên vẻ đẹp bi tráng, hào hùng. Hiểu rằng mỗi câu thơ lúc bấy giờ đều phải “rút ra từ tháng ngày bom đạn” (Nguyễn Đức Mậu) nên Quang Dũng đã không ít lần nhấn mạnh đến sự hi sinh của người lính Tây Tiến:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời.”

Cách nói “không bước nữa” đã làm giảm đi sự đau thương: Dẫu có ngã xuống, người lính vẫn ra đi trong tư thế vô cùng hiên ngang, kiêu hùng. “Gục lên súng mũ” – ấy là khi dù trái tim đã ngừng đập nhưng lí tưởng cao cả vẫn còn đó, dẫu có nằm lại nơi chiến trường thì tâm hồn vẫn một lòng hướng về khát vọng độc lập. Miêu tả sự hi sinh, mất mát nhưng Quang Dũng không muốn phủ lên câu thơ sự bi lụy, buồn đau. Mỗi hình ảnh về người lính đều như một lời khẳng định: “Họ đã quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, họ đã ra đi một cách kiên cường, cao đẹp. 

Dọc cung đường biên giới xa xôi, đã có biết bao nhiêu chiến sĩ của ta nằm lại. Hành trình tiến quân nhiều gian khổ, có những lúc thiếu lương thực, phải đối diện với bệnh tật hiểm ác, đối diện với quân thù hung bạo đã khiến nhiều người lính phải hi sinh:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Xót xa biết bao khi những những nấm mộ của người lính chỉ nằm “rải rác” ở nơi “viễn xứ” không hẹn một ngày được trở về quê hương. Bước vào chiến trường với tâm thế “chẳng tiếc đời xanh”, người chiến sĩ trẻ sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc, cống hiến tuổi trẻ vì độc lập dân tộc. Câu thơ vì thế ánh lên tầm vóc lớn lao, khí thế hiên ngang của những người lính. Viết về những đớn đau nhưng không mang màu sắc tang thương, ngòi bút đầy bi tráng đã giúp Quang Dũng khắc họa sự ra đi đặc biệt của người lính:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Nơi chiến trường trận mạc, họ chỉ có những manh áo đã sờn màu vì nắng gió. Khi họ ra đi, chỉ có tấm chiếu manh đơn sơ bao bọc lấy thân thể. Thế nhưng nhà thơ Quang Dũng đã gọi đó là “áo bào”, như muốn sự ra đi của người lính được hiện lên một cách trang trọng, khẳng định vẻ đẹp bi tráng hào hùng, quả cảm của các anh qua những vần thơ. Hình ảnh “áo bào” cùng cách nói giảm nói tránh “về đất” đã làm giảm đi tính chất bi thương, khiến những đau đớn, mất mát trở nên nhẹ nhàng hơn. Tiếng “gầm” mà sông Mã cất lên vừa là tiếng khóc đầy đau đớn, tiếc thương trước sự hi sinh của người lính, vừa là khúc tráng ca tiễn đưa các anh về với đất mẹ anh hùng. Ngợi ca những hi sinh, mất mát nhưng hơn cả, nhà thơ còn khẳng định sự bất tử của những người lính. Họ ra đi nhưng thực chất là về với sự che chở của quê hương, về với núi sông để trường tồn mãi mãi trong lòng đất nước, trong lòng nhân dân – như ý thơ sau này của Trần Thế Tuyển cũng khẳng định: “Thân ngã xuống thành đất đai Tổ quốc/Hồn bay lên hóa linh khí quốc gia”.

Có thể nói, bài thơ “Tây Tiến” ra đời chính là thành quả của nỗi nhớ, niềm thương dành cho đoàn quân Tây Tiến được kết tinh thành câu từ. Những năm tháng chiến đấu gian khổ thực sự đã tạo tác nên hình ảnh người lính với những nét vẽ đặc biệt: dũng cảm, lạc quan nhưng cũng lãng mạn, hào hoa và đầy bi tráng. Bởi hiểu “Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác” (Xuân Diệu), nhà thơ “xứ Đoài mây trắng” đã tạo chiều sâu cho cảm xúc và hình ảnh người lính bằng các từ láy gợi hình, gợi cảm; các biện pháp tu từ đặc sắc hay ngôn từ được lạ hóa. Đặc biệt, ở bài thơ còn là sự kết hợp trong bút pháp tương phản giữa cách miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên và vẻ đẹp của người lính; giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nhịp thơ nhanh với nhiều từ mang thanh trắc gợi cái hiểm trở của núi rừng nhưng cũng là vẻ đẹp hiên ngang, khí phách vượt lên nghịch cảnh. Những câu thơ với nhiều thanh bằng, nhịp thơ chậm rãi như cũng hòa vào sự lãng mạn, bay bổng của người lính. 

Đúng như nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy từng nhận định: Tây Tiến đã “đạt đến sự nhất nguyên của cái đẹp, một giá trị nằm ngoài thời gian”. Với ngòi bút tài hoa của mình, nhà thơ Quang Dũng đã khắc họa nên một tượng đài người lính tỏa sáng với vẻ đẹp “nhất nguyên” trọn vẹn: sự kiên cường, bản lĩnh trong ý chí và hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn. Và có lẽ chính bởi vậy mà ngay cả khi chiến tranh đã lùi xa ta hơn nửa thế kỷ thì sức sống lâu bền, sự bất tử của những câu thơ về người lính trong “Tây Tiến” vẫn luôn để lại những âm vang khó quên trong lòng độc giả. Người đọc mọi thời khi đọc “Tây Tiến” như được nhìn thấy trong đó bầu trời thanh sắc của ngôn từ và tâm tư, thấy dư âm mãi trong lòng về hình ảnh những người lính của một thời “đi chẳng tiếc đời xanh”…

Tham khảo bài viết khác tại đây:

So sánh, đánh giá hai bài thơ “Đất Nước” và “Việt Bắc”

Phân tích đoạn trích trọng tâm trong “Số đỏ” – Vũ Trọng Phụng

Xem thêm: