Trong chương trình Ngữ văn lớp 12, các bạn 2k7 sẽ được tìm hiểu về tiểu thuyết “Số đỏ” của nhà văn Vũ Trọng Phụng. Đây là tác phẩm tiêu biểu phản ánh rõ nét những đặc điểm nổi bật của thể loại tiểu thuyết.
Cô Na gửi đến bạn phân tích những vấn đề nổi bật trong ba đoạn trích trọng tâm của tiểu thuyết “Số đỏ” xuất hiện trong ba bộ sách để có cái nhìn rõ nét hơn về thể loại tiểu thuyết nhé!
1. Phân tích nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” (SGK Cánh diều 12, tập 2, tr.35)

Từ điển Văn học đã đặt thông tin về “Số đỏ” là tác phẩm “lên án gay gắt cái xã hội tư sản thành thị Việt Nam đang chạy theo lối sống văn minh rởm hết sức lố lăng đồi bại đương thời.” Quả thực, tác phẩm đã phát huy cao độ tài năng châm biếm, đả kích sắc sảo của Vũ Trọng Phụng trước những thói xấu xa, giả dối của xã hội thực dân, phong kiến nửa đầu thế kỉ XX. Trong đó, ngòi bút trào phúng đặc sắc của ông được thể hiện trọn vẹn trong chương “Hạnh phúc của một tang gia” – nơi một màn hài kịch trọn vẹn được phô bày qua hình ảnh của một đám tang “mẫu mực”.
Nghệ thuật trào phúng là nghệ thuật tạo tiếng cười để mỉa mai, châm biếm, chế nhạo, chỉ trích, tố cáo những cái tiêu cực, xấu xa, lỗi thời, độc ác trong xã hội. Đối với “Hạnh phúc của một tang gia”, ý nghĩa châm biếm được gửi trong tên chương truyện khi cho thấy một mâu thuẫn trào phúng, một nghịch lý đầy nực cười: một gia đình có tang, đáng lẽ phải tiếc thương, sầu não đến chừng nào, ấy vậy mà lại hạnh phúc. Mới nghe có vẻ ngược đời nhưng trong hoàn cảnh cụ thể của gia đình này thì điều ấy lại vô cùng hợp lí. Ở đám tang cụ Tổ, mọi người đều vui như hội: con cái, cháu chắt, họ hàng thân thích, người quen biết… ai cũng thấy đây là một dịp may hiếm có mà họ đã mong chờ từ lâu để thoả mãn một nguyện vọng, một ý đồ nào đó. Vũ Trọng Phụng vạch rõ chân tướng nhố nhăng, lố bịch của những hạng người mang danh là thượng lưu, quý phái, văn minh, tân tiến nhưng thực chất lại là những cặn bã, quái thai của cái xã hội dở Tây dở ta buổi ấy.
Trong chương này, tác giả đã xây dựng thành công những bức chân dung trào phúng đặc sắc mà ở đó, mỗi nhân vật hiện lên là một niềm “hạnh phúc” trong cảnh tang gia bối rối. Đối với những kẻ có quan hệ ruột rà với cụ Tổ, cái chết của cụ chẳng làm cho đứa con, đứa cháu nào tiếc thương bởi đã từ lâu, họ mong cụ chết cho nhanh để chia gia tài. Thay vào sự tiếc thương, cái chết của cụ đã đem đến cho họ niềm vui to lớn không che giấu nổi: “Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Bọn con cháu vô tâm ai cũng vui sướng thoả thích… Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma…”
Người cháu rể là Phán mọc sừng khấp khởi, sướng rơn trong bụng vì đã được bố vợ nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia cho con gái và con rể thêm một số tiền vài nghìn đồng. Chính ông không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế. Còn người con trai cả của cụ Tổ thì sung sướng vì một lí do khác lớn hơn. Cụ cố Hồng mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ bình phẩm, ngợi khen mình. Văn Minh (cháu nội), đã từng du học tận bên Tây bao năm, về nước không có lấy một mảnh bằng, chỉ nhăm nhăm nghĩ tới chuyện chia gia tài thì thích thú ra mặt vì cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa. Cậu tú Tân, cháu nội cụ Tổ hào hứng, phấn khởi thật sự vì cậu có dịp trổ tài sử dụng cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến. Vợ Văn Minh (cháu dâu) mừng rỡ vì sẽ được mặc đồ xô gai tân thời và đội cái mũ mấn trắng viền đen… để quảng cáo cho một kiểu đồ tang mới lạ của cửa hàng Âu hoá vừa mới chế ra. Cô Tuyết – cháu gái cụ Tổ với bộ y phục ngây thơ khá hở hang và nét mặt cố tạo ra một vẻ buồn lãng mạn, rất đúng mốt một nhà có đám, khiến cho bao nhiêu vị khách đàn ông khi trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết phải xúc động còn hơn nghe tiếng kèn… ai oán, não nùng.
Đặc biệt, ngòi bút châm biếm, đả kích sâu cay được Vũ Trọng Phụng thể hiện rõ nét trong quá trình đưa tang. Đám tang được tổ chức chẳng khác nào một ngày hội nhố nhăng, hổ lốn. Đám ma được làm theo cả lối Ta, Tàu, Tây, có đủ cả kiệu bát cống, lợn quay… đi lọng, vài ba trăm câu đối, bức trướng, vòng hoa phúng điếu, vài trăm người đưa đám nghiêm nghị, thành kính đi sát ngay sau linh cữu cụ Tổ, trong đủ thứ tiếng kèn huyên náo: kèn ta, kèn Tây, kèn Tàu, có cả âm thanh chói tai, rộn rã của lốc bốc xoảng và bu-dích…
Trong cảnh cất đám, ta thấy rõ nét sự giả tạo đến đáng sợ của những con người vô lương tâm. Đám bạn bè, quan khách của tang chủ, đi đưa đám không phải để chia buồn mà là cốt khoe ngực đầy những huy chương như: Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vạn Tượng bội tinh…. trên mép và cằm đều đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loàn quàn… Đám phụ nữ quý phái, đám trai thanh gái lịch đang theo đuổi, học đòi phong trào Âu hoá, vừa đi đưa ma vừa cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau… Và mỉa mai thay, họ làm tất cả những chuyện ấy bằng vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma (!) Điều đó chứng tỏ họ hoàn toàn dửng dưng với người chết, tất cả đều thản nhiên, vui vẻ và dối trá.
Người dân hai bên đường đổ xô ra xem đám ma như xem một sự lạ. Đám ma to đến nỗi những người trong tang gia cảm thấy hết sức sung sướng và hàng phố nhốn nháo cả lên khen đám ma to. Nhà văn lạnh lùng bình luận: “Đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu.” Thật là mỉa mai, chua chát! Đằng sau sự phô trương, cố làm ra vẻ long trọng, danh giá ấy là sự rởm đời đến mức lố lăng, là thói háo danh đến trơ trẽn của bọn người giàu sang, hãnh tiến và bao trùm lên tất cả là thói đạo đức giả, tự lừa mình và lừa người.
Song song với việc mô tả hình thức đám ma với đủ các nghi thức trọng thể, Vũ Trọng Phụng không quên đi sâu thể hiện, phanh phui mặt trái của nó. Ngòi bút sắc sảo của nhà văn trưng lên liên tiếp những bức biếm hoạ trước mắt người đọc, để rồi giúp người đọc nhận ra rằng cái đám ma to tát ấy chỉ thiếu một cái duy nhất mà cũng quan trọng nhất của đám ma – đó là tình người. Thiếu lòng thương tiếc chân thành đối với người đã khuất thì tất cả những hình thức loè loẹt, om sòm kia đều trở thành vô nghĩa, thành trò cười cho thiên hạ. Những kẻ có mặt trong đám ma giống nhau ở chỗ đều giả dối và vô đạo đức.
Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, đẩy sự lố lăng, dị hợm của đám ma cụ Tổ lên tới đỉnh cao. Hắn chọn đúng lúc để có mặt, trước sự chú ý của mấy trăm con người và gây ấn tượng mạnh với hai vòng hoa đồ sộ, sáu chiếc xe kéo sang trọng và một đám sư, cùng loại sư của báo Gõ mõ. Điều này khiến cho bà cố Hồng càng thêm sung sướng: “Ấy, giả không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi”. Còn cô Tuyết, người yêu của Xuân Tóc Đỏ cũng phải cảm động mà liếc mắt đưa tình với hắn.
Vũ Trọng Phụng tả cảnh hạ huyệt như một vở kịch mà bàn tay dàn dựng của đạo diễn quá ư lộ liễu, trắng trợn: cậu Tú Tân bắt từng người phải chống gậy, gục đầu, cong lưng, lau mắt… để cậu chụp ảnh, trong khi bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau. Chỉ có một tiếng khóc lớn nhất bật lên là của ông Phán mọc sừng: ông oặt người đi, khóc mãi không thôi và tiếng khóc của ông thật đặc biệt: Hức! Hức! Hức. Ông thương cho người đã khuất chăng? Không phải! Ông đang đóng kịch trước mặt mọi người. Thực ra, cụ Tổ chết ông ta rất mừng vì được chia phần khá nhiều, kể cả cái giá của bộ sừng mà cô vợ ông đã cắm lên đầu ông. Miệng khóc, tay ông Phán dúi nhanh vào tay Xuân Tóc Đỏ một cái giấy bạc năm đồng gấp làm tư… để trả công hắn đã gọi ông là Phán mọc sừng trước họ hàng nhà vợ, nhờ đó mà ông ta có thêm được một món tiền lớn.
Có thể nói, “Hạnh phúc của một tang gia” chính là cách Vũ Trọng Phụng vạch trần, lên án hiện thực xã hội nửa thực dân – nơi mà đạo đức của con người trở nên rẻ mạt. Bút pháp trào phúng của Vũ Trọng Phụng hay ở chỗ phóng đại mà như không phóng đại, làm cho mọi việc đều như thật và hơn thật. Các mâu thuẫn giữa hiện tượng và bản chất được khai thác triệt để nhằm gây nên những tràng cười có ý nghĩa phê phán sâu sắc. Ngôn từ được sử dụng đầy tính châm biếm với cách diễn đạt vừa vô lí vừa có lí hay những lời nhận xét, bình luận hài hước, mà thâm thúy. Giọng điệu trào phúng đầy sâu cay chính là sự giễu nhại đầy mỉa mai của nhà văn dành cho con người, xã hội bấy giờ. Điệp ngữ “đám cứ đi” giúp ta hình dung ra được đám tang rất đông nhưng bao trùm là sự phô trương giả dối, sự dửng dưng, vô cảm của những người đi đưa tiễn.
“Hạnh phúc một tang gia” là được coi là một trong những chương đặc sắc nhất của “Số đỏ” bởi cho thấy ngòi bút trào phúng đạt đến độ đỉnh cao của Vũ Trọng Phụng. Cảnh đám ma hiện ra như một màn hài kịch sinh động, một bức biếm hoạ khổng lồ và chi tiết về cái xã hội tự xưng là thượng lưu, sang trọng ở Hà Nội thời đó đang phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại trước mắt mọi người.
Nguồn: Sưu tầm, biên soạn lại từ thichvanhoc.com.vn
2. Cảm nhận về nhân vật Xuân Tóc Đỏ trong đoạn trích “Xuân Tóc Đỏ cứu quốc” (SGK Kết nối tri thức 12 tập 1, tr.11)

Nhắc đến nhà văn Vũ Trọng Phụng, người ta nhớ ngay đến nhân vật Xuân Tóc Đỏ – nhân vật chính trong tiểu thuyết “Số đỏ” của ông. Có mấy ai không công nhận cái tài xảo trá của Xuân khi “tiến thân” được vào xã hội thượng lưu với đủ loại mánh khóe, thủ đoạn? Khi mỗi chương truyện đều là một màn hài kịch được Vũ Trọng Phụng đạo diễn bằng ngòi bút châm biếm sâu cay thì đoạn trích “Xuân Tóc Đỏ cứu quốc” đã lột trần hơn cả bản tính rởm đời, bịp bợm của Xuân cũng như sự thối nát của xã hội đương thời.
Vũ Trọng Phụng gợi dẫn đến không gian sân quần Rollandes Vreau – nơi diễn ra một sự kiện lịch sử của thể thao nước nhà. Tuy nhiên, đây thực chất chỉ là trò hề hỗn loạn, nực cười để làm nền cho Xuân Tóc Đỏ xuất hiện với vai trò là người “cứu quốc” đầy xảo trá, lố lăng. Xuân đã dùng thủ đoạn loại bỏ cá đối thủ mạnh để trở thành người duy nhất đấu với quán quân của Xiêm. Xuân Tóc Đỏ được đặt vào trong tình trạng nguy cấp: đông đảo khán giả đả đảo hắn vì đẩy hai nước Việt – Xiêm đến nguy cơ chiến tranh khi Xuân thắng quán quân Xiêm La trong trận tỉ thí quần vợt. Vũ Trọng Phụng đã tài tình tạo dựng một tình huống đầy nghịch lý: bài “hùng biện” đầy xảo trá khi hắn chấp nhận thua theo đề nghị của quan trên của Xuân lại có thể đổi thắng thành thua, khiến hắn trở thành người anh hùng “cứu quốc”, bậc “vĩ nhân” chỉ trong chốc lát.
Hình tượng nhân vật Xuân Tóc Đỏ không xuất hiện trực tiếp mà xuất hiện một cách gián tiếp qua lời kể của cô Tuyết. Nhà văn nhấn mạnh đến sự đại bại trong trận quần vợt của bà Văn Minh, cái sự hiểu của mỗi thành viên nhà cụ cố Hồng rằng nếu không ghi lấy một bàn thắng thì danh dự của gia đình này sẽ mất hết. Xuân Tóc Đỏ lúc này hiện lên như vị “cứu tinh” đặc biệt bởi “mọi người còn hi vọng vào Xuân”. Trong xã hội mà mọi gian xảo trở thành điều thường nhật thì bản chất bịp bợm của Xuân Tóc Đỏ cũng khó có thể nhận ra. Hắn trong mắt mọi người là một kẻ tài giỏi, vì thế trở thành niềm hi vọng có thể cứu vớt được danh dự của một gia đình.
Có thể nói, con đường “thăng tiến” của Xuân từ trước tới giờ đi kèm với rất nhiều vận may. Một phần nhờ xã hội thượng lưu thối nát tạo cơ hội cho Xuân “thừa nước đục thả câu” càng bành trướng hơn thói rởm đời của hắn, phần nhiều hơn bởi hắn biết dùng cái bản tính láu cá, bịp bợm của mình để làm lợi cho bản thân. Xuân chấp nhận thua theo đề nghị, trận quần vợt kết thúc với tiếng la hét, sự đả đảo, thất vọng, bất mãn khi Xuân để bị đánh bại bởi đối thủ từ nước Xiêm. Thủ pháp cường điệu hóa những ngờ vực: “Sao tài tử Xuân, giáo sư quần vợt, mà lại đến nỗi… quốc sỉ như thế?” càng cho thấy ngòi bút châm biếm của Vũ Trọng Phụng về sự tin tưởng dành cho “tài năng quần vợt” của người hâm mộ dành cho Xuân. Nhưng với sự lươn lẹo vốn có, Xuân không dễ gì để mình trở thành một nỗi xấu hổ vì sự thua cuộc ấy. Việc Xuân đánh thua bàn cuối chính là bước ngoặt để Xuân bộc lộ sự xảo trá: hắn lấy sự mù mờ của dân chúng để điều hướng, khiến ai cũng phải tôn vinh hắn bởi đã chấp nhận thua vì nghĩa lớn.
“Bài hùng biện” của Xuân Tóc Đỏ trước công chúng càng cho thấy ngòi bút trào phúng sâu cay mà Vũ Trọng Phụng hướng đến thói rởm đời của Xuân. Đây quả thực là một tấn trò, một màn hài kịch được tạo bởi sự đánh tráo khái niệm đầy tài tình của hắn. Những người anh hùng giải cứu đất nước được biết đến với tấm lòng hi sinh cao cả, vì nước mà quên lợi ích cá nhân – nay Xuân lợi dụng những phẩm chất đó để biện minh cho sự mưu mô, ham địa vị của hắn. Xuân Tóc đỏ gán cho hành động thua cuộc một ý nghĩa đẹp đẽ như vì “góp một phần vào việc tiến bộ trong trật tự hòa bình”, “cốt giữ cái mối thiện cảm của một nước dân bang”, “phụng sự công cuộc ngoại giao của Chính phủ”. Những điều này khiến ai nghe cũng phải cảm kích bởi một nhà lãnh tụ tận tụy, giàu lòng hi sinh đã dám từ chối danh vọng cá nhân, không muốn việc thắng cuộc sẽ dẫn đến chiến tranh thảm khốc giữa Việt – Xiêm.
Tỏ ra đầy cao cả là thế nhưng ngôn ngữ trong “bài hùng biện” của Xuân lại đầy trịnh thượng. Xuân xưng “ta”, gọi “mi” cùng cách nói đầy dõng dạc “Hỡi quần chúng”, “Quần chúng nông nổi ơi”, “mi đã biết đâu” hay sự trách móc “Mi không hiểu gì, mi oán ta!” đều cho thấy tài ăn nói, thuyết phục của Xuân. Hắn thể hiện mình là người nắm rõ sự tình của đất nước, còn dân chúng là người sai khi chỉ trích hắn một cách thiếu căn cứ. Đặc biệt, Xuân còn thể hiện một loạt hành động mạnh mẽ: vỗ vào ngực, đấm tay xuống không khí, giơ cao tay lên hệt như “một nhà chính trị đại tài”. Sự phóng đại, cường điệu hóa của Vũ Trọng Phụng khiến người đọc phải bật cười bởi bản chất giả dối, trí trá của Xuân Tóc Đỏ cùng sự thối nát của xã hội đương thời.
Cách diễn thuyết đầy tài tình, thành thạo giúp Xuân một công đôi việc làm cho sự thua cuộc của hắn trở nên cao thượng, vừa củng cố sự tin tưởng, ngưỡng mộ của dân chúng dành cho hắn. Đám đông khi được gọi là “mi” một cách đầy hạ bệ không những không tức giận mà cảm phục, hoan hô “tấm lòng hi sinh” của Xuân dành cho quốc gia. Tiếng vỗ tay “ran lên như mưa rào”, nghìn người “bùi ngùi và cảm động” trước Xuân. Để quần chúng hoan hô Xuân Tóc Đỏ “Sự đại vạn tuế!’, Vũ Trọng Phụng như càng tô đậm thêm cái bi, cái hài cho bức tranh xã hội kệch cỡm bấy giờ. Hài vì một kẻ vô học như Xuân lại được ca tụng như một người hùng, đấng vĩ nhân; bi bởi xã hội ai cũng bị dắt mũi, không thể phân biệt được đúng sai. Từ lúc còn là một tên ma cà bông cho đến khi trở thành vĩ nhân thì cái ngôn ngữ vô giáo dục kia luôn gắn bó với hắn.
Đoạn trích đã cho thấy sự mâu thuẫn giữa hình thức bên ngoài và bản chất bên trong được nhìn nhận qua con mắt tinh đời của Vũ Trọng Phụng. Ở Xuân Tóc Đỏ, cái phô bày ra đầy cao thượng đến đâu thì bản chất bên trong hắn càng trái ngược, kệch cỡm bấy nhiêu. Trên trang văn của Vũ Trọng Phụng, ta thấy một Xuân Tóc Đỏ từ một tên lưu manh đến danh thủ quần vợt của Bắc Kỳ rồi bước lên bậc thang danh vọng cao nhất: “Anh hùng cứu quốc”. Xuân là hiện thân cho một xã hội mà ở đó, tấn trò đùa của cuộc đời được thể hiện rõ nét hơn cả. Vũ Trọng Phụng đã dũng cảm phơi bày bản chất của chế độ thực dân nửa phong kiến nhố nhăng mà ở đó – thói rởm đời, phô trương cứ thế hoành hành, đến mức một kẻ vô học như Xuân có thể dễ đổi trắng thay đen, biến sai thành đúng. Có thể khẳng định, ngôn từ đầy thâm thúy, sâu cay với cách nói mỉa, nghịch ngữ, ẩn dụ đã được Vũ Trọng Phụng sử dụng triệt để. Giọng văn trào phúng đầy mỉa mai, sắc sảo chính là cách nhà văn cất lên tiếng nói phê phán xã hội đương thời.
Nhân vật Xuân Tóc Đỏ chính là sự thành công của ngòi bút xây dựng nhân vật của Vũ Trọng Phụng. Trong hành trình đưa tiểu thuyết trở thành “sự thực ở đời”, ông đã đóng góp cho nền văn học một hình tượng nhân vật đầy độc đáo. Xuân Tóc Đỏ chính là điển hình tiêu biểu, là sự phơi bày rõ nét ra trước mắt người đọc một xã hội trong buổi giao thời đầy lố lăng, kệch cỡm nhưng vẫn tự xưng là thượng lưu, sang trọng lúc bấy giờ.
3. Cảm nhận về đoạn trích “Hai quan niệm về gia đình và xã hội” (SGK Chân trời sáng tạo 12 tập 2, tr.25)

Được mệnh danh là “ông vua phóng sự đất Bắc”, nhà văn Vũ Trọng Phụng luôn mang đến cho mỗi tiểu thuyết của mình những cái nhìn chân thật, sinh động về xã hội. Đối với “Số đỏ”, ông đã khắc họa thành công một xã hội thối nát với những con người kệch cỡm chạy theo đủ lề lối Tây hóa rởm đời. Đặc biệt, đoạn trích “Hai quan niệm về gia đình và xã hội” chính là một màn kịch thời đại mà ở đó, bản chất của sự cải cách xã hội mang danh là “văn minh”, tân tiến được ngòi bút châm biếm của Vũ Trọng Phụng lột trần một cách sâu sắc.
Mâu thuẫn trào phúng được thể hiện ngay trong nhan đề của đoạn trích. Gia đình vốn là thành trì quan trọng nhất của mỗi con người, là “tế bào” của xã hội, quyết định sự tồn tại, phát triển của xã hội. Chính vì vậy, gia đình và xã hội phải có mối quan hệ mật thiết và thống nhất với nhau để giáo dục con người và đưa đất nước phát triển, đi lên. Ấy vậy mà trong đoạn trích “Hai quan niệm về gia đình và xã hội”, con người ta lại có sự mâu thuẫn gay gắt giữa đổi mới và bảo thủ; hiện đại hóa và gìn giữ truyền thống trong quan niệm về gia đình và quan niệm về xã hội.Bên ngoài thì kêu gọi đổi mới xã hội bằng việc thay đổi cách ăn mặc cho “Âu hóa” nhưng với gia đình thì lại khắt khe cho rằng đó là lố lăng, đồi bại. Vũ Trọng Phụng từ đó lên án cái xấu xa, kệch cỡm, cái lố bịch, đầy phi lí của công cuộc Âu hóa, phương Tây hóa ở đô thị Việt Nam vào thập niên 30 của thế kỉ XX.
Sự thành công của Vũ Trọng Phụng nằm ở việc nhà văn đã xây dựng được những nhân vật trở thành điển hình về mặt tâm lí xã hội như Xuân Tóc Đỏ, vợ chồng Văn Minh, ông Typn,… Trong đoạn trích này, các nhân vật ấy cũng đã nói lên những quan điểm độc đáo của mình để đóng góp công sức vào cái công cuộc “cải cách xã hội” đầy cao cả. Với họ, việc cấp thiết cần phải làm bây giờ là xóa bỏ cái cũ, tất cả đề phải “Âu hóa” để tiến bộ.
Đoạn trích mở đầu bằng màn giao nhiệm vụ của vợ chồng Văn Minh với Xuân Tóc Đỏ. Dù chỉ là một người trông cửa hàng, nhưng theo vợ chồng Văn Minh, Xuân cũng đang góp phần vào sự phát triển của xã hội: “Trước khi có thể giúp chúng tôi về thể thao, anh hãy cố sức giúp xã hội trong công cuộc Âu hóa.… Từ đây mà đi, xã hội văn minh hay dã man là trách nhiệm ở anh!” Mặc dù chỉ là một lời thoại của nhân vật, người đọc vẫn thấy thấp thoáng ở đó tiếng cười đầy mỉa mai, châm biếm của nhà văn. Chỉ làm công việc “trông nom” thôi mà Xuân đã có thể “giúp xã hội trong cuộc Âu hóa”, quyết định đến sự văn minh của xã hội thì hóa ra cái xã hội ấy cũng thật dễ cải cách. Ngược lại cách nói có phần khoa trương của Văn Minh, vợ Văn Minh lại cụ thể hóa việc cải cách xã hội ấy bằng việc làm không thể dễ thực hiện hơn: “lúc nào rỗi thì cầm cái chổi này mà phủi bụi”, “đừng để cửa hiệu rác rưởi, bụi bặm.” Sự mâu thuẫn trong cách nói của ông bà Văn Minh đã mang lại tiếng cười cho độc giả. Bởi cả hai mở miệng ra là “Âu hóa” nhưng thực chất lại không biết gì về bản chất của nó mà chỉ là hô hào.
Một đại diện tiêu biểu của sự học đòi “Âu hóa” là “nhà mĩ thuật” với danh xưng độc đáo – ông Typn. Qua nhân vật này, một lần nữa Xuân được khoác lên mình nhiệm vụ cải cách đầy cao cả: “… cuộc Âu hóa trông cậy vào cái óc thông minh của anh”. Typn luôn miệng chỉ cho Xuân về đặc điểm của các bộ trang phục Âu hóa mà hắn thiết kế như bộ Kiên trinh, bộ Lưỡng lự, bộ Ngây thơ,… Và dù vẫn chẳng hiểu gì về sứ mệnh thiêng liêng mà ai cũng đặt lên vai mình, Xuân Tóc Đỏ vẫn cố gắng ghi nhớ tên của các mốt thời trang ở cửa hàng Âu hóa: “Mẹ kiếp! Quần với chả áo! – Cái này là cái gì? À Lời hứa!… Hở ngực, hở tay, hở đùi là Chinh phục!…”. Một xã hội tưởng chừng văn minh nhưng lại dùng quần áo để đánh giá con người, khiến những bộ trang phục mang những ý nghĩa hết sức dị hợm: “hở cánh tay và hở cổ là Dậy thì”,… Đó là sự cách tân mù quáng mà không có chọn lọc. Cách tác giả khiến Xuân “Vì trong óc nó có sẵn thành kiến, cái gì nhố nhăng thì mới là tân thời”, như đại diện toàn bộ con người lúc bấy giờ: mất đi vẻ đẹp truyền thống. Họ cho rằng phong cách bên ngoài mới thể hiện được cái hợp thời, giống như nhà thẩm mĩ nhận xét: “mỗi một người bằng lòng may một bộ y phục tân thời, thế là nước nhà có thêm một người tiến bộ”. Đó là một xã hội chạy theo sự hào nhoáng, phô trương lại tự cho mình là bắt kịp xu hướng.
Đây còn là một xã hội đầy sự hai mặt khi con người có tính cách cổ hủ nhưng lại làm cho mình cái vẻ hiện đại, cách tân thứ thiệt. Qua nhân vật Typn, chúng ta sẽ thấy rõ tính hai mặt đó trong quan niệm của ông ta về gia đình và xã hội.
Typn được Vũ Trọng Phụng xây dựng trong vai một kẻ sống giả dối. Ban đầu, nhà thẩm mĩ nói với Xuân về trách nhiệm cải cách xã hội rồi chỉ cho anh ta những kiểu “gu” nhằm mục đích bán hàng. Nếu chỉ dừng lại ở đó, chắc hẳn, ai cũng nghĩ đây là nhân vật tiêu biểu cho phong trào Âu hóa, cách tân, đổi mới, qua việc sáng tạo ra các mốt thời trang. Ấy vậy mà với vợ mình thì lại hoàn toàn khác. Khi nhìn thấy vợ trong bộ áo dài quần trắng (quần áo dài của phụ nữ xưa thường tối màu, mặc màu trắng bị cho là lẳng lơ) thôi mà đã đủ khiến ông nổi đóa lên: “Chính vợ tôi? Chính vợ tôi mà lại ăn mặc tân thời như thế này?” với rất nhiều câu hỏi “Hở Giời” được lặp lại trước vẻ ngoài tân thời của vợ. Bị vợ bắt bẻ, ông ta chống chế bằng thứ lí lẽ phô bày tất cả sự gia trưởng và cổ hủ: “Khi người ta cổ động đàn bà thì phải biết là cũng có năm bảy thứ đàn bà!”, “Người khác thì được, mà mợ, mợ là vợ tôi, thì mợ không thể tân thời như người khác được!”. Ông Typn – người tự cho mình cái quyền cách tân hiện đại giúp cho xã hội văn minh hơn nhưng lại sẵn sàng cấm đoán vợ mình không được bắt chước theo.
Quan niệm của Typn về “cải cách” đầy mâu thuẫn. Phụ nữ cần tân thời hơn trong trang phục, nhưng vợ ông thì không. Xã hội cần Tây hóa, nhưng gia đình ông thì không. Typn – bề ngoài tỏ vẻ mang trọng trách cách tân xã hội nhưng bản chất lại cổ hủ, bảo thủ. Phải chăng, chính Typh cũng không cảm nổi cái ông cho là tân thời, hắn chỉ vì tiền bạc, danh vọng mà chạy theo lối Tây hóa mù quáng? Nhà báo cũng củng cố quan niệm của Typn: “Ta nên chia gia đình và xã hội ra làm hai”. Typn, nhà báo chính là đại diện cho lớp người giả dối, sẵn sàng làm trái với lương tâm cốt chỉ để có được tiền bạc, danh vọng.
Qua sự đối lập giữa quan niệm về gia đình và quan niệm về xã hội trong đoạn trích, nhà văn đã chỉ ra sự tương phản giữa cái đồi bại, thối nát của bản chất bên trong với cái phô trương, kệch cỡm mang danh Tây hóa ở hình thức bên ngoài. Từ đó, tác phẩm cũng đả kích sâu cay xã hội tư sản bịp bợm, chạy theo lối sống văn minh rởm, lố lăng. Vũ Trọng Phụng đã sáng tạo ra hàng loạt tình tiết hài hước mang đầy tính châm biếm qua ngòi bút trào phúng tài năng. Giọng điệu châm biếm là tiếng cười giễu nhại đầy sâu cay qua cách kể châm biếm, những câu cảm thán được sử dụng. Ngôn ngữ vỉa hè đến ngôn ngữ pha tạp nhiều tiếng Pháp, nửa Tây nửa ta… đã góp phần diễn đạt cái xã hội mà mọi thứ đều lai căng, tạp nham. Hàng loạt các tình huống trào phúng xoay quanh công việc “to tát” của Xuân được tạo dựng, từ đó, bản chất kệch cỡm của nhân vật, xã hội bộc lộ rõ nét.
Balzac từng khẳng định: “Nhà văn phải là người thư kí trung thành của thời đại”. Quả thực, Vũ Trọng Phụng chính là một trong những “người thư kí” cần mẫn nhất bởi qua “Số đỏ” nói chung và “Hai quan niệm về gia đình và xã hội” nói riêng, ta thấy một bức tranh về xã hội thực dân nửa phong kiến bấy giờ hiện lên một cách rõ nét hơn bao giờ hết. Vũ Trọng Phụng đã cất lên tiếng nói phê phán một xã hội sẵn sàng chạy theo tiền bạc, danh vọng mà chà đạp lên thuần phong mĩ tục.
Nguồn: Lớp Văn thầy Nhật (Đã được biên soạn lại)
Tham khảo những bài viết liên quan:
Phân tích đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” – Vũ Trọng Phụng (bài 2)
Cách mở rộng, nâng cao vấn đề trong bài nghị luận văn học
Cái tôi tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân trong “Người lái đò sông Đà”
Xem thêm:
- Lớp văn cô Ngọc Anh trực tiếp giảng dạy tại Hà Nội: Tìm hiểu thêm
- Tham khảo sách Chuyên đề Lí luận văn học phiên bản 2025: Tủ sách Thích Văn học
- Tham khảo bộ tài liệu độc quyền của Thích Văn học siêu hot: Tài liệu
- Đón xem các bài viết mới nhất trên fanpage FB: Thích Văn Học



