Nghị luận văn học nâng cao: Phong cách nghệ thuật của nhà thơ

NLVH nang cao - Phong cach nghe thuat cua nha tho

Phong cách nghệ thuật chính là điều làm nên sự độc đáo, diện mạo riêng biệt của người nghệ sĩ. Để từ đó, mỗi trang văn không chỉ là sự phản ánh của đời sống mà còn cho thấy cách nhìn, cách cảm riêng của mỗi nhà thơ, nhà văn. 

Thích Văn học gửi đến bạn bài văn nghị luận nâng cao về một nhận định văn học của nhà thơ Lê Đạt về phong cách nghệ thuật. Mong rằng, các bạn sẽ có thêm kiến thức lí luận để áp dụng trong quá trình làm bài, có thêm góc nhìn về bài thơ “Vội vàng” nhé!

Đề bài: 

Nhà thơ Lê Đạt từng nhận định: 

“Mỗi công dân có một dạng vân tay. 

Mỗi nhà thơ có một dạng vân chữ. 

Không trộn lẫn”

Chứng minh nhận định qua bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu.

Bài làm

Tạo hóa là đấng sáng tạo tài ba, người đã tạo ra hàng tỉ sinh vật trên hành tinh mà không có sự vật nào hoàn toàn trùng khít. Như than đá và kim cương, dù cùng được cấu thành từ nguyên tử cacbon nhưng hình dáng và tính chất lại vô cùng khác nhau. Như hổ và báo đốm, cùng là họ mèo nhưng tập tính sống và cách thức săn mồi lại hoàn toàn khác biệt. Mỗi vật một tính, mỗi người một vẻ, tự nhiên vốn đa dạng, phong nhiêu, trù phú vô cùng! Không nằm ngoài quy luật đó, trong văn chương, mỗi nhà văn đều có phong cách nghệ thuật riêng, không ai giống ai. Cá tính sáng tạo của mỗi cây bút chính là yếu tố then chốt cấu thành nên vị trí không thể thay thế của họ trên văn đàn. Vì lẽ đó, nhà thơ Lê Đạt từng nhận định: 

“Mỗi công dân có một dạng vân tay. 

Mỗi nhà thơ có một dạng vân chữ. 

Không trộn lẫn”

Với Xuân Diệu – cây bút được mệnh danh là “ông hoàng thơ tình”, phong cách và cá tính sáng tạo ấy đã được thể hiện đậm nét qua tác phẩm “Vội vàng”. 

Trước hết, “vân tay” là những hoa văn trên đầu ngón tay mỗi người. Đó là thứ không ai giống ai, là dấu hiệu để nhận dạng một cá thể duy nhất, không pha tạp, dung hợp với người nào khác. Từ hình ảnh đời thường ấy, nhà thơ Lê Đạt đã liên tưởng đến một hình ảnh rất độc đáo: “vân chữ”. “Vân chữ” là cách nói hình ảnh, ý chỉ bút pháp riêng, phong cách, cá tính sáng tạo độc nhất vô nhị của người cầm bút. Nếu “vân tay” là dấu hiệu nhận diện con người thì “vân chữ” chính là dấu hiệu nhận diện tâm hồn cùng sự độc sáng, riêng biệt của người viết. “Không trộn lẫn” tức là không trùng lặp, lẫn lộn, không hòa vào số đông, trở thành một cá thể đặc biệt, duy nhất. Như vậy, nhận định của Lê Đạt đã thể hiện một quan niệm nghệ thuật sâu sắc: điều cốt lõi, sống còn với người nghệ sĩ chân chính là khả năng tạo ra dấu ấn độc đáo, hình thành được phong cách nghệ thuật của riêng mình. Và nhìn sâu hơn, khi chính Lê Đạt là một nhà thơ với chủ trương cách tân thơ ca, ý kiến có lẽ còn nhấn mạnh nhiều đến sự sáng tạo, đổi mới trên thi đàn.

Cuộc sống là dòng chảy vĩnh hằng không ngừng biến động, “không ai tắm hai lần trên một dòng sông” (Heraclitus). Văn học phản ánh cuộc sống nên nó không thể là hòn đá bất động làm chững mạch cuộc sống mà cũng phải thay đổi để kiến tạo những giá trị mới, sóng đôi cùng dòng chảy. Văn chương, vì thế là vùng đất của sự sáng tạo, lĩnh vực của cái sự độc đáo, viết văn làm thơ là phải đổi mới. Nhà văn, nhà thơ không thể dập khuôn bản thân mà luôn cần phá kén vươn mình, định hình cá tính riêng, xây dựng phong cách nghệ thuật. Phong cách nghệ thuật ấy không phải là yếu tố vụn vặt, nhất thời mà mang tính chất bền vững, hệ thống. Mà yếu tố đầu tiên biểu hiện đậm nét cá tính người viết chính là ở cách nhìn, cách cảm thụ có tính khám phá về cuộc sống và con người. Dễ hiểu vì sao R.Gamzatov tha thiết mong muốn “trao cho tôi đôi mắt” thay vì “trao cho tôi đề tài”. Thế giới dẫu phong phú muôn màu nhưng đối với mỗi người viết lại có những cách xuyên chiếu, khúc xạ khác biệt. Đề tài trong đời sống thì muôn thuở, nhưng khai thác nó dưới tọa độ ra sao, lại tùy thuộc vào từng nhà văn. Cùng một sự vật, hiện tượng, nhưng dưới nhiều góc độ, nhiều điểm nhìn, kết hợp với những trải nghiệm và vốn sống khác nhau, các nhà văn nhà thơ sẽ có cách thẩm định, đánh giá, khai thác thông tin không trùng lặp với người khác. Cái nhìn là yếu tố căn cốt, quan trọng, là tiền đề khởi phát ở nhà thơ thế giới nghệ thuật riêng, bao trùm lên tác phẩm một “miền khí hậu” (chữ dùng của Nguyễn Ngọc Tư) đặc biệt. Đồng thời, cách nhìn, cách cảm thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan của người viết, chi phối toàn bộ hệ thống đề tài, chủ đề, phương tiện và hình thức biểu đạt tác phẩm. Bên cạnh đó, phong cách nghệ thuật còn được thể hiện ở hệ thống các phương thức biểu hiện, những thủ pháp, bút pháp có tính chất ổn định, thống nhất, đặc trưng như cách kể chuyện, tổ chức kết cấu, miêu tả ngoại hình, bộc lộ nội tâm nhân vật, xây dựng hình ảnh, cách sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu,… Tức là phong cách được bộc lộ qua yếu tố hình thức nghệ thuật trong hệ thống các văn bản. Nói thế để thấy, những biểu hiện của phong cách nghệ thuật vô cùng đa dạng, màu mỡ. Minh giải cho điều ấy, không có lí do nào phù hợp hơn sự phong nhiêu, trù phú trong tính cách và vốn sống của từng nhà văn, nhà thơ. Chính nhờ cá tính sáng tạo riêng biệt đó, văn đàn trở nên đa dạng hơn, nhiều màu sắc, không nhàm chán, đơn tẻ, một màu. Đồng thời, chính họ cũng được ghi danh trên trường văn trận bút những hằng giá trị riêng, không ai giống ai. 

Xuân Diệu là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới, được mệnh danh là “mới nhất” vì khả năng cách tân độc đáo, xây dựng lối đi riêng không trùng lặp với nhiều cây bút cùng thời. Nghĩ về Xuân Diệu, là suy tư về một nhà thơ “một đời như kẻ tìm đường”, đã nhiều lần cất tiếng, bộc lộ sâu sắc cái tôi của mình trên văn đàn. Tất nhiên, phong cách của một tác giả phải được định hình qua hệ thống tác phẩm xuyên suốt đời viết của họ. Nhưng trong một chừng mực nhất định, có một số tác phẩm nổi bật, mà ở đó phong cách của họ được thể hiện đậm nét nhất, sâu sắc nhất. Trường hợp “Vội vàng” của Xuân Diệu là một tác phẩm như vậy. 

Khác với nhiều cây bút lãng mạn đương thời, hoặc luôn tìm cách đối lập với cuộc đời hoặc thoát ly thực tại, Xuân Diệu, ngược lại, luôn muốn khẳng định sự gắn bó tha thiết với trần thế, người đã “đốt cảnh bồng lai xua ai nấy về hạ giới”. Không thoát lên tiên, không tìm về cõi vĩnh hằng, Xuân Diệu tìm thấy hạnh phúc ở trần gian, ở hiện tại, say đắm tình yêu, say đắm cảnh đời. Cuộc đời, dưới nhãn quan của Xuân Diệu chẳng khác gì  khu vườn trần tràn ngập hương thơm, mật ngọt và tình ái. Do đó, ông luôn có khao khát giao cảm mãnh liệt, muốn thâu, muốn nhập, muốn trói, muốn buộc mình với cuộc đời, giữ lại mọi cảnh sắc của nhân thế: 

“Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi.”

Bằng lối điệp cấu trúc “Tôi muốn… cho…”, Xuân Diệu đã bộc lộ một khát vọng vừa mãnh liệt, vừa táo bạo, đó là mong ước chống lại quy luật bất biến của đất trời. Nắng và gió vốn là sự vật tự nhiên, là “chuyện của trời” (Nguyễn Bính), con người bất khả xâm phạm. Thế mà, một người thường như Xuân Diệu lại muốn “tắt nắng”, “buộc gió”, phải chăng là muốn đoạt quyền hóa công, chống lại luật trời, phải chăng là ngông cuồng, ngạo mạn? Nhưng không, cái “ngông” của Xuân Diệu không phải thứ ngông cuồng ngạo mạn của kẻ thách thức tạo hóa, mà là cái “ngông” của một trái tim yêu đến tận cùng sự sống. Đằng sau khát vọng “tắt nắng”, “buộc gió” ấy là một nỗi lo âu thường trực: sợ cái đẹp phai tàn, sợ thời gian cuốn trôi tất cả. Khi Xuân Diệu muốn “tắt nắng”, “buộc gió” cũng là lúc ông khao khát được giữ lại sắc vàng của nắng, hương thơm của gió, nghĩa là giữ lại mọi tinh túy của cuộc đời, của tuổi trẻ và tình yêu. Đó là biểu hiện của một tấm lòng yêu tha thiết cuộc sống. 

Dưới đôi mắt “xanh non biếc rờn” của thi sĩ, cuộc đời hiện ra như một mảnh vườn tình mơn mởn, căng non, tràn trề sức sống: 

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;

Này đây hoa của đồng nội xanh rì;

Này đây lá của cành tơ phơ phất;

Của yến anh này đây khúc tình si.

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.”

Như một lời mời gọi, bức tranh mùa xuân hiện ra đầy hương sắc và rộn ràng âm thanh. Đó là hình ảnh ong bướm quấn quýt không rời trong tuần tháng mật, là bông hoa xanh rì nơi đồng nội với lá của cành tơ nõn nà, yểu điệu phất phơ trước gió. Thi nhân không chỉ cảm nhận bằng thị giác mà còn bằng cả thính giác, xúc giác, khứu giác,… bằng tất cả các giác quan tinh nhạy của một tâm hồn yêu đời tha thiết. Ông lắng nghe tiếng yến, tiếng anh líu lo khúc tình si, cảm thấy ánh sáng cũng trở nên tình tứ, e ấp như “chớp hàng mi”. Nếu trong thơ cổ, thiên đường là nơi tách biệt chốn nhân gian, thì với Xuân Diệu, thiên đường ở ngay trên mặt đất, trong từng nụ hoa, cánh bướm, trong hơi thở của mùa xuân và trong nhịp đập của trái tim yêu. Lầu thơ ông đặt ở mảnh đất trần gian, trái tim ông dành cho cuộc đời trần thế. Do đó, cảnh vật không tồn tại như nó vốn là mà đã được khúc xạ qua màng lọc tâm hồn thi sĩ. Thậm chí, giữa các sự vật, thật kì lạ, không tách biệt mà đều có sự xe kết kì diệu, có đôi có cặp, đều nồng đượm yêu thương và chất chứa ái tình. Chim yến và chim anh, ong và bướm, hoa và lá đều sóng đôi xuất hiện cùng nhau, chúng tận hưởng “tháng mật”, say sưa “khúc tình si”. Cả vũ trụ như đang vào mùa giao hoan, rạo rực, mê đắm, ngọt ngào. Đến đây, ta nhận ra danh xưng “ông hoàng thơ tình” quả đã được đặt cho đúng người! Dưới con mắt của thi sĩ, cảnh vật được nhân hóa, vật nào cũng mang dáng hình của người yêu, vật nào cũng có hơi thở của tình yêu, vật nào cũng đang chộn rộn, thiết tha, đắm say trong không khí ngọt ngào của ái tình. Đó là cái chất rất riêng của Xuân Diệu, là “vân chữ” trong thơ của thi sĩ.

Song, cũng vì yêu cuộc đời trần thế nên con người rất sợ hãi bước đi của thời gian. Càng hồ hởi với khao khát giao cảm với cuộc đời, Xuân Diệu càng vội vã khi nhận ra thời gian của đời mình là hữu hạn: 

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.”

Với người xưa, thời gian có thể là vòng luân hồi bất tận, “xuân đi xuân lại lại” (Hồ Xuân Hương). Nhưng với Xuân Diệu, thời gian là tuyến tính, một đi không trở lại, vũ trụ không ngừng vận động, thời gian luôn chảy trôi, mỗi giây phút trôi qua là mất đi vĩnh viễn, đây là một quan niệm đậm sắc Tây phương, xuất phát từ cái nhìn động và biện chứng về vũ trụ. Do đó, với ông “xuân đang tới” đồng nghĩa với “xuân đang qua”, sự sống vừa hé nở đã mang mầm mống của sự lụi tàn. Sự tồn tại của con người vừa mỏng manh, vừa chóng vánh đến choáng váng, không chắc chắn, không vĩnh cửu. Chính Xuân Diệu cũng từng thổ lộ: “Trong gặp gỡ đã nảy mầm li biệt”, trong cái ríu rít non tơ, cái mật ngọt của hiện tại, dường như đã thấp thoáng đâu đây mầm mống của chia ly, của phai úa, đắng cay ở vị lai. Giữa vườn trần chan chứa yêu thương ấy, “con gió xinh” cũng phải biết “hờn”, còn “chim rộn ràng” cũng phải sợ. Trong nỗi ám ảnh đó, nhà thơ cảm nhận sâu sắc sự ngắn ngủi của tuổi trẻ và kiếp người. Điều này khiến giọng thơ Xuân Diệu vừa tha thiết vừa hối hả, vừa yêu đời vừa băn khoăn, khắc khoải trong lo sợ. Ông yêu đến nồng nàn, say đắm, nhưng cũng vì yêu quá nên sợ quá: sợ hương tàn, sắc phai, sợ tuổi xuân chóng hết. Đó là nghịch lý muôn đời của kẻ đa tình: vừa khao khát tận hưởng cuộc sống vừa bất lực trước sự chảy trôi của thời gian, sự hữu hạn của kiếp người. 

Chính cảm thức thời gian tuyến tính và nỗi ám ảnh về sự hữu hạn đã khiến Xuân Diệu trở nên “vội vàng” hơn ai hết. “Vội vàng” để yêu, để sống, để tận hưởng đến tận cùng từng khoảnh khắc tồn tại. Đó chính là triết lí sống “carpe diem” (hãy tận hưởng ngày hôm nay) mà Xuân Diệu đã Việt hóa bằng tâm hồn của một thi sĩ phương Đông đầy ước vọng: 

“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,

                   Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng,

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”

Ở cao trào cảm xúc, khát vọng sống và yêu của Xuân Diệu đã hóa thành một cơn cuồng si, mê đắm. Điệp ngữ “ta muốn” được lặp lại liên tiếp như những nhịp đập gấp gáp của con tim đang rộn rã trước sự sống. Từng động từ mạnh như “ôm”, “riết”, “say”, “thâu”, “cắn”  đã gợi dòng cảm xúc chiếm lĩnh đến tận cùng, muốn hòa tan bản thân vào vạn vật. Xuân Diệu không chỉ ngắm nhìn hay thưởng thức sự sống mà còn muốn chiếm hữu nó, sống trọn với nó, uống cạn ly đời đến giọt cuối cùng. Câu thơ cuối “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” là tiếng kêu bộc phát của một trái tim cuồng nhiệt, của người yêu đời đến mức muốn hòa tan mình vào mùa xuân tươi trẻ, muốn tận hưởng sự sống bằng tất cả các giác quan, muốn thâu nhận, nhập thân trong một phút giây giao cảm tuyệt đỉnh. Ở đây, ngôn từ không còn là công cụ diễn đạt mà trở thành nhịp thở, là hơi nóng của một trái tim đang bừng cháy niềm yêu sống, muốn giao cảm tuyệt đích với cuộc đời. 

Qua “Vội vàng”, dấu ấn phong cách Xuân Diệu được tái hiện đậm nét. Đó là thi sĩ  yêu đời mãnh liệt, một cái tôi với khát khao giao cảm với trần gian và hiện tại, cùng cảm thức thời gian tuyến tính, thái độ sống vội vàng trước sự hữu hạn của kiếp người. Thơ Xuân Diệu giàu nhạc điệu, tươi trẻ, say mê và cuồng nhiệt, giọng thơ linh hoạt, giàu cảm xúc. Chính “vân chữ” ấy đã làm nên một Xuân Diệu độc nhất vô nhị, xác thực cho nhận định sâu sắc của nhà thơ Lê Đạt. 

Nhận định của Lê Đạt đã đặt ra những yêu cầu căn bản đối với quá trình sáng tạo và tiếp nhận văn chương. Với người sáng tác, “vân chữ” không phải là yếu tố có thể vay mượn, mà là kết quả của quá trình sống, suy nghĩ và chiêm nghiệm.  Một nhà văn chỉ có thể hình thành phong cách riêng khi họ dấn thân, tích lũy trải nghiệm thực, trau dồi tri thức và không ngừng làm mới tư duy nghệ thuật. Sự lặp lại, khuôn sáo theo đám đông sẽ là liều thuốc độc phá hủy thanh danh và uy tín của người viết. Với người tiếp nhận, “vân chữ” của tác giả cũng đặt ra một yêu cầu mới trong cách đọc. Đọc văn không phải để tìm kiếm những điều sẵn có mà cốt để nhận ra cách nhà văn nhìn thế giới và con người. Khi hiểu rằng mỗi tác phẩm là kết tinh của một cá tính sáng tạo, người đọc cần có thái độ cầu thị, đối thoại, trân trọng sự khác biệt, từ bỏ áp đặt khuôn mẫu, mở lòng trước những cách tân, đổi mới của tác giả. 

Trong dòng chảy không ngừng của thời đại, khi trí tuệ nhân tạo và công nghệ ngày càng bộc lộ nhiều tiềm năng và có thể đe dọa một số loại hình nghệ thuật, có lẽ chính dấu ấn sáng tạo, sự độc đáo và trí tưởng tượng của người làm văn, làm thơ sẽ là bảo chứng vững chắc giúp họ kiên định trên con đường sáng tác. Tương lai vẫn là một ẩn số, nhưng tôi tin rằng, nhờ sáng tạo không ngừng, mỗi nhà thơ với “vân chữ” riêng sẽ tiếp tục làm phong phú văn đàn và khẳng định vị trí không thể thay thế.

Tham khảo bài viết khác tại đây:

Ngôn ngữ thơ – Vẻ đẹp của nghệ thuật gửi hồn tư tưởng

Xem thêm: