Đề 20 – NLVH: Bàn về khả năng nói ra của thơ

De 20 - NLVH: Ban ve kha nang noi ra cua tho

Thơ không chỉ là ngôn từ đẹp, mà còn là một cách để nói lên những điều chúng ta khó diễn đạt bằng lời thông thường. Từ lá thư của Ocean Vuong đến tuyên ngôn của Mai-a-cốp-xki, thơ luôn được tin tưởng như một chiếc chìa khóa mở ra cảm xúc sâu kín nhất. Trong bài viết này, Thích Văn Học sẽ cùng bạn suy ngẫm về khả năng “nói ra” đặc biệt của thơ – nơi mà đôi khi, chính sự im lặng cũng lên tiếng.

Đề bài:

Nhà văn trẻ Ocean Vuong viết cuốn sách Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian bằng hình thức một lá thư của một cậu con trai gửi cho mẹ bằng tiếng Anh. Cậu bảo, vì mẹ không đọc được tiếng Anh cho nên cậu mới có thể viết ra được những điều bí mật. Điều này cho thấy có những bí mật, những sự thật được viết ra, nói ra dưới ngôn ngữ mà chúng ta không đọc được. TS Văn học Nguyễn Thanh Tâm cho rằng nhiều bài thơ cũng vậy. (*) 

Nhà thơ Nga Mai–a–cốp–xki cũng từng nói: “Trên đời có những thứ chỉ giải quyết được bằng thơ. 

(*) Dẫn theo tuoitre.vn, Ngày thơ Việt Nam: Chúng ta chất vấn thơ quá nhiều, hãy để thơ chất vấn chúng ta. 

Những dữ kiện trên gợi cho anh/chị suy nghĩ gì về khả năng nói ra của thơ

Đáp án và thang điểm

CâuNội dungĐiểm

2

Nghị luận văn học

12,0

I. Yêu cầu về kỹ năng 

– Biết cách làm bài nghị luận văn học về một vấn đề lí luận văn học. 

– Vận dụng nhuần nhuyễn, linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, chứng minh, bình luận… 

– Lời văn trong sáng, diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp. 

– Khuyến khích bài viết có cách diễn đạt sáng tạo, giàu hình ảnh. 

1.0

II. Yêu cầu về kiến thức 

Thí sinh có thể triển khai bài làm của mình theo những cách thức khác nhau, quan điểm khác nhau và lựa chọn những dẫn liệu khác nhau. Về cơ bản, bài làm cần đạt được một số yêu cầu sau: 

11.0

1. Giải thích  

– Câu chuyện sử dụng ngôn ngữ của Ocean Vuong: lựa chọn ngôn ngữ phù hợp (theo cả nghĩa rộng: ngôn ngữ là tiếng Anh, và nghĩa hẹp: ngôn ngữ là từ, ngữ) để thể hiện nội dung, đặc biệt là những điều bí mật, khó nói, những sự thật trần trụi.  

– Ý kiến của Mai-a-cốp-xki: khẳng định khả năng của thơ ca trong việc biểu đạt những điều khó nói của con người. Cụm từ “chỉ – giải quyết” cho thấy vị trí độc tôn của thơ trong việc giãi bày và tác động tới tâm tư, nhận thức, sự thay đổi của con người. Đó là sức mạnh độc quyền của thơ. 

→ Vấn đề cần bàn luận: khả năng nói ra của thơ – khả năng biểu đạt, tác động (nói) của một thể loại văn học cụ thể. Thơ là một phương thức biểu đạt phù hợp cho những điều sâu kín, khó nói. Đây vừa là đặc trưng vừa là chức năng của thơ.

3.0

2. Bàn luận 

* Cơ sở lí luận (4,0 điểm)

– Tại sao thơ sở hữu khả năng đặc biệt để nói ra những sự thật? 
  • Đặc trưng nội dung: thơ là tiếng nói của những cảm xúc tế vi, ẩn sâu, khó nắm bắt nhất; thơ khắc sâu vào thế giới tinh thần. Những sự thật, bí mật của cuộc đời lại không phải là thứ hiển hiện rõ ràng; thơ bộc lộ khả năng đào sâu ấy trong từng ngóc ngách của nội tâm con người, trong từng khoảnh khắc của đời sống.  
  • Đặc trưng hình thức: ngôn ngữ thơ ca hàm súc, đa nghĩa, giàu sức gợi. Sức mạnh của ngôn từ thơ ca là khả năng nói ý ngoài lời. Chính vì sức nén của nó, nhà thơ phải lựa chọn từ đắt giá, hình ảnh biểu tượng cao để truyền tải cảm xúc, suy tư; từ đó độc giả cũng phải “dừng chân”, nghiền ngẫm và giải mã những kí hiệu ngôn từ. 

Hơn thế, trong thơ có nhạc (nhất là nhạc của tâm hồn) nên dễ ủi an, vỗ về con người.  

Đây chính là điểm khác biệt giữa ngôn từ thơ ca so với lời nói thường ngày, giữa ngôn ngữ thơ với ngôn ngữ văn xuôi.  

  • Người đọc thơ không nhất thiết phải trình bày tỏ tường từng câu từng chữ, thơ từ chối sự diễn xuôi và áp đặt; Trang Tử nói cái tinh tuý của thơ là sự lĩnh ý, nếu giải thích lại thành cái thô thiển.  
  • Sức mệnh của thơ: trong hành trình thúc gọi người đọc khám phá ngôn từ, thơ còn dẫn dắt người đọc đi vào cái thanh cao, đi đến xứ sở của cái đẹp; khiến con người nhìn sâu vào bản thể, lắng nghe tiếng lòng của chính mình. Những sự thật, bí mật mà thơ hướng tới là cái nhìn chân thật về chính mình. 
– Những thứ như thế nào chỉ có thơ mới giải quyết được? 
  • Bí mật của cá nhân: những nỗi đau riêng tư, những cắc cớ của con người, những khát vọng vượt lên định kiến xã hội… 

VD: Nỗi uỷ khuất của Nguyễn Du gửi gắm qua thơ chữ Hán; nỗi oán hờn cùng khát khao tình yêu được thể hiện đầy nhục cảm của Hồ Xuân Hương, cái khát khao thân thể hoà cùng khát khao đồng điệu tâm hồn, trong đó chứa đựng sự thật về giới tính trong thơ tình Xuân Diệu; sự lạc lõng của người trẻ đương đại trong thơ miên di, thơ Vi Thuỳ Linh… 

  • Sự thật của loài người, của thế hệ, của nhân loại:  

Một xã hội phong kiến mục nát, chôn vùi con người trong thơ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương; thơ ca nói về cái chết, cái mất mát khi thời đại lại cố tình chôn giấu (Quang Dũng – Tây Tiến, thơ Lưu Quang Vũ). Thơ đồng hành cùng con người trong những sự kiện chấn động:  nữ nhà thơ đoạt giải Nobel người Ba Lan, Wislawa Szymborska viết bài Tấm ảnh chụp ngày 11 tháng 9… 

→ Thơ biểu đạt trạng thái tinh thần của con người, đặc biệt là thế giới tinh thần khủng hoảng.

→Thơ đồng hành để ủi an, nâng đỡ con người. Thơ nói sự thật, phơi trải những bí mật để giúp con người lưu giữ những kí ức, giúp con người “đỡ khổ” (chữ của Chế Lan Viên), giups con người có sức mạnh để vượt qua chấn thương. (Chức năng, sứ mệnh của thơ) 

– Khả năng nói ra của thơ được bộc lộ bằng cách thức nào? 
  • Bằng những ẩn dụ, phúng dụ, bằng hình tượng thơ độc đáo
  • Bằng sự lặng im giữa các từ (ý toại ngôn ngoại) 
– Bàn luận mở rộng: 
  • Mặt khác thơ có những giới hạn: 

Thực ra thơ không “giải quyết” triệt để những vấn đề của con người. Thơ không thể thay thế thuốc men, thực phẩm trong thời đại dịch bệnh, khủng hoảng. Thơ đôi khi cũng bất lực trước những vấn đề của con người.  

  • Người đọc cần có năng lực để “đọc” những điều thơ “nói ra”.
7.0

3. Chứng minh  

Thí sinh có thể sử dụng những dẫn chứng khác nhau để làm rõ những điều chỉ có thơ mới biểu đạt được và cách thức của nó (nội dung và nghệ thuật). Dẫn chứng cần đa dạng, phong phú, bao gồm các tác phẩm văn học trung đại và hiện đại; thơ Việt Nam lẫn thơ nước ngoài. Trân trọng những bài viết kết hợp giữa lí lẽ và dẫn chứng, không tách rời hoàn toàn phần cơ sở lí luận với phân tích dẫn chứng. 

3.0

4. Đánh giá

– Thơ luôn có vị trí đặc biệt trong đời sống tinh thẩn của con người. Nó biểu đạt, nâng đỡ, đồng hành cùng con người để giúp con người nhìn rõ, sống sâu, sống đẹp. 

– Vấn đề của bài gợi ra bài học cho người sáng tạo và người tiếp nhận: Nhà thơ cần hiểu rõ chất liệu của thơ, lắng nghe & thâu tóm chất liệu hiện thực; cần vận dụng sáng tạo quyền năng của ngôn ngữ bởi lựa chọn ngôn ngữ (cách biểu đạt) cũng chính là bước đầu thành công trong truyền tải thông điệp. Người đọc thơ cần có năng lực đọc: am hiểu đặc trưng thơ, không áp đặt, suy diễn, đọc thơ cũng là nâng cao năng lực thấu cảm.

1.0
Tổng điểm12.0

Tham khảo đáp án đề Nghị luận xã hội số 20 tại đây:

Đề 20 – NLXH: Bạn có trong mình Heliophilia không?

Xem thêm: